Có từ thoi vàng, thoi bạc cho đến tiền sắt, kẽm, đồng và cả tiền cotton lẫn polymer nhé!
Thời Bắc thuộc
Căn cứ vào các hoạt động khảo cổ, thời kỳ này tiền đồng Trung Quốc được lưu hành tại Việt Nam như Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, Khai nguyên thông bảo của nhà Đường và cả những đĩnh vàng, đĩnh bạc cũng được lưu hành.
Thời phong kiến độc lập
Mỗi triều đại nước ta thường cho đúc một loại tiền riêng, bao gồm tiền đồng, tiền kẽm, tiền sắt, tiền giấy như Thái bình thông bảo thời nhà Đinh, Thiên phúc trấn bảo thời Tiền Lê. Cuối năm 1820 (cuối triều Gia Long), song song với tiền đồng, các thoi vàng, thoi bạc, đồng vàng, bạc cũng được sử dụng.
Thời kỳ Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp
Đơn vị tiền tệ cả khu vực là Piastre, thường gọi là “bạc”. Lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27,73 gam, sau đó có đồng bạc Đông Dương nặng 27 gam. Ngân hàng Đông Dương cũng phát hành cả tiền giấy nữa. Tờ tiền giấy in hình 3 thiếu nữ với những bộ trang phục truyền thống của 3 nước Campuchia, Lào và Việt Nam.
Đồng bạc Mexico đúc năm 1838.
Đồng bạc Đông Dương đúc tại Pháp.
Tờ 100 bạc Đông Dương.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám
Từ 1945 – 1954, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời ngày 31/11/1946. Một mặt in chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt in hình Nông – Công – Binh. Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá; có ký tên của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Giám đốc Ngân khố TW. Do đó ngoài tên gọi giấy bạc Cụ Hồ, còn tên gọi khác là giấy bạc tài chính.
Tờ giấy bạc tài chính 100 đồng với chữ Hán ngay bên dưới ảnh Bác Hồ.
Tờ giấy bạc tài chính 5 đồng.
Ngày 5/6/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt nam thành lập và phát hành giấy bạc ngân hàng. 1 đồng ngân hàng đổi lấy 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1.000 và 5.000 đồng. Một mặt in chữ “Việt nam Dân chủ Cộng hoà” và hình Hồ Chí Minh, một mặt in hình Công – Nông – Binh và bộ đội ở chiến trường. Trên giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.
Tờ giấy bạc ngân hàng 20 đồng có màu tím khá đẹp.
Tờ giấy bạc ngân hàng 100 đồng.
Và tờ 5.000 đồng, tờ giấy bạc có giá trị nhất lúc bấy giờ.
Sau đó, do có nhiều khó khăn trong liên lạc, Trung Bộ và Nam Bộ được phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1, 5, 20, 50 và 100 đồng. Hình ảnh trang trí tương tự nhưng có thêm chữ kí của Chủ tịch Uỷ Ban kháng chiến Nam Bộ, đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ.
Từ 1954 – 1975, sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có 2 chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở miền Nam, từ 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hoà). Năm 1953, tiền kim loại 10, 20, 50 xu được đưa vào lưu thông. 1960, có thêm tiền kim loại 1 đồng, và 10 đồng năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20 đồng năm 1968. 50 đồng đúc năm 1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì Việt Nam Cộng hoà sụp đổ. Vì thế rất hiếm đồng xu này còn tồn tại.
Tờ 1.000 đồng.
Tờ 500 đồng.
Tờ 200 đồng. Dòng chữ “Hình phạt khổ- sai những kẻ nào giả mạo giấy bạc do ngân-hàng quốc gia Việt-Nam phát ra” nhằm răn đe những kẻ làm tiền giả đã bắt đầu nhen nhóm trong thời kì này.
Sau 30/4/1975, tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng. Từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở vào, 500 đồng miền Nam đổi lấy 1 đồng giải phóng. Từ Huế trở ra, 1000 đồng miền Nam đổi 3 đồng giải phóng.
Tờ 10 xu.
Tờ 2 đồng.
Tờ 10 đồng. Vào năm 1978, sau khi đất nước thống nhất về mặt hành chính, đã có một cuộc đổi tiền nữa. Ở miền bắc 1 đồng giải phóng đổi 1 đồng thống nhất, ở miền Nam 1 đồng giải phóng đổi 8 hào thống nhất. Có phát hành thêm các loại tiền 5 hào, 1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 30 đồng, 50 đồng, 100 đồng.
Tờ 5 hào với ảnh cây dừa ở Bến Tre.
[i]Tờ 1 đồng với ảnh nhà máy Gang thép Thái Nguyên.
Tờ 20 đồng với ảnh máy gặt lúa và đập nước.
[/i]Lần đổi tiền thứ 3 vào năm 1985, khi 10 đồng thống nhất đổi 1 đồng tiền mới. Phát hành các loại tiền 10, 20, 50 đồng.
[i]Mặt trước của tờ 50 đồng.
...và mặt sau.
Tờ 10 đồng với hình ảnh cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn. [/i]Cho đến nay
Tiền giấy cotton 10.000 và 20.000 đồng in vào năm 1990, loại 50.000 đồng được phát hành từ 15/10/1994, 100.000 đồng cotton phát hành ngày 1/9/2000.
[i]Tờ 100.000.
Tờ 50.000.
Và tờ 10.000 đỏ chói!
[/i]Trong những năm gần đây, Việt Nam cho in tiền kim loại mệnh giá nhỏ (nhưng đã ngừng lưu hành vì tính bất tiện), kết hợp với việc in tiền giấy làm từ polymer thay cho giấy cotton. Tiền polymer có nhiều ưu điểm hơn tiền cotton, như khó làm giả, độ bền cao hơn 3 – 4 lần, khó rách… Loại tiền này không thấm nước, phù hợp khí hậu của Việt Nam mà vẫn thích ứng với các máy xử lí tiền như máy ATM, máy đếm tiền… Chi phí tính toán để in tiền polymer cao gấp đôi tiền cotton.
[I]
[center]
[i]Tờ 20.000.
Tờ 100.000.
[I]cái này tui thích nhất
Thời Bắc thuộc
Căn cứ vào các hoạt động khảo cổ, thời kỳ này tiền đồng Trung Quốc được lưu hành tại Việt Nam như Hán nguyên thông bảo của nhà Hán, Khai nguyên thông bảo của nhà Đường và cả những đĩnh vàng, đĩnh bạc cũng được lưu hành.
Thời phong kiến độc lập
Mỗi triều đại nước ta thường cho đúc một loại tiền riêng, bao gồm tiền đồng, tiền kẽm, tiền sắt, tiền giấy như Thái bình thông bảo thời nhà Đinh, Thiên phúc trấn bảo thời Tiền Lê. Cuối năm 1820 (cuối triều Gia Long), song song với tiền đồng, các thoi vàng, thoi bạc, đồng vàng, bạc cũng được sử dụng.
Thời kỳ Việt Nam là một phần Đông Dương thuộc Pháp
Đơn vị tiền tệ cả khu vực là Piastre, thường gọi là “bạc”. Lúc đầu có đồng bạc Mexico nặng 27,73 gam, sau đó có đồng bạc Đông Dương nặng 27 gam. Ngân hàng Đông Dương cũng phát hành cả tiền giấy nữa. Tờ tiền giấy in hình 3 thiếu nữ với những bộ trang phục truyền thống của 3 nước Campuchia, Lào và Việt Nam.
Đồng bạc Mexico đúc năm 1838.
Đồng bạc Đông Dương đúc tại Pháp.
Tờ 100 bạc Đông Dương.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám
Từ 1945 – 1954, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời ngày 31/11/1946. Một mặt in chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt in hình Nông – Công – Binh. Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá; có ký tên của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Giám đốc Ngân khố TW. Do đó ngoài tên gọi giấy bạc Cụ Hồ, còn tên gọi khác là giấy bạc tài chính.
Tờ giấy bạc tài chính 100 đồng với chữ Hán ngay bên dưới ảnh Bác Hồ.
Tờ giấy bạc tài chính 5 đồng.
Ngày 5/6/1951, Ngân hàng Quốc gia Việt nam thành lập và phát hành giấy bạc ngân hàng. 1 đồng ngân hàng đổi lấy 10 đồng tài chính. Giấy bạc ngân hàng có các loại mệnh giá: 1, 10, 20, 50, 100, 200, 500, 1.000 và 5.000 đồng. Một mặt in chữ “Việt nam Dân chủ Cộng hoà” và hình Hồ Chí Minh, một mặt in hình Công – Nông – Binh và bộ đội ở chiến trường. Trên giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.
Tờ giấy bạc ngân hàng 20 đồng có màu tím khá đẹp.
Tờ giấy bạc ngân hàng 100 đồng.
Và tờ 5.000 đồng, tờ giấy bạc có giá trị nhất lúc bấy giờ.
Sau đó, do có nhiều khó khăn trong liên lạc, Trung Bộ và Nam Bộ được phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1, 5, 20, 50 và 100 đồng. Hình ảnh trang trí tương tự nhưng có thêm chữ kí của Chủ tịch Uỷ Ban kháng chiến Nam Bộ, đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ.
Từ 1954 – 1975, sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền Nam có 2 chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở miền Nam, từ 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hoà). Năm 1953, tiền kim loại 10, 20, 50 xu được đưa vào lưu thông. 1960, có thêm tiền kim loại 1 đồng, và 10 đồng năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20 đồng năm 1968. 50 đồng đúc năm 1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì Việt Nam Cộng hoà sụp đổ. Vì thế rất hiếm đồng xu này còn tồn tại.
Tờ 1.000 đồng.
Tờ 500 đồng.
Sau 30/4/1975, tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phóng. Từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở vào, 500 đồng miền Nam đổi lấy 1 đồng giải phóng. Từ Huế trở ra, 1000 đồng miền Nam đổi 3 đồng giải phóng.
Tờ 10 xu.
Tờ 2 đồng.
Tờ 10 đồng.
Tờ 5 hào với ảnh cây dừa ở Bến Tre.
[i]Tờ 1 đồng với ảnh nhà máy Gang thép Thái Nguyên.
Tờ 20 đồng với ảnh máy gặt lúa và đập nước.
[/i]Lần đổi tiền thứ 3 vào năm 1985, khi 10 đồng thống nhất đổi 1 đồng tiền mới. Phát hành các loại tiền 10, 20, 50 đồng.
[i]Mặt trước của tờ 50 đồng.
...và mặt sau.
Tờ 10 đồng với hình ảnh cầu Thê Húc và đền Ngọc Sơn.
Tiền giấy cotton 10.000 và 20.000 đồng in vào năm 1990, loại 50.000 đồng được phát hành từ 15/10/1994, 100.000 đồng cotton phát hành ngày 1/9/2000.
[i]Tờ 100.000.
Tờ 50.000.
Và tờ 10.000 đỏ chói!
[/i]Trong những năm gần đây, Việt Nam cho in tiền kim loại mệnh giá nhỏ (nhưng đã ngừng lưu hành vì tính bất tiện), kết hợp với việc in tiền giấy làm từ polymer thay cho giấy cotton. Tiền polymer có nhiều ưu điểm hơn tiền cotton, như khó làm giả, độ bền cao hơn 3 – 4 lần, khó rách… Loại tiền này không thấm nước, phù hợp khí hậu của Việt Nam mà vẫn thích ứng với các máy xử lí tiền như máy ATM, máy đếm tiền… Chi phí tính toán để in tiền polymer cao gấp đôi tiền cotton.
[I]
[center]
[i]Tờ 20.000.
Tờ 100.000.
[I]cái này tui thích nhất