Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Khóa tài khoản 7 ngày đối với bất kì thành viên nào có bài viết quảng cáo đăng sai quy định.

Latest topics

» Công ty T.V.C An Giang thiết kế website miễn phí cho doanh nghiệp
by teenlx Tue Apr 05, 2011 11:58 pm

» Du học Nhật ước mơ của có thể thực hiện
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:06 pm

» SỢ VỢ
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:04 pm

» về với yêu thương
by Khách viếng thăm Wed Mar 23, 2011 2:25 pm

» Khẳng định đẳng cấp tại 12BET
by dona11102 Tue Mar 22, 2011 8:45 pm

» Những mẫu bikini tôn thờ vóc dáng sexy
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:26 pm

» 9X Ngọc Trinh bỏng mắt với bikini
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:24 pm

» 12BET- Nơi hội tụ những đẳng cấp
by dona11102 Mon Mar 21, 2011 9:30 pm

» [Tổng hợp] Portable Video Software (Không cài đặt. Download -> Run)
by KID Sun Mar 20, 2011 11:37 am

» Cập nhật cách vào facebook bằng cách chỉnh sửa file hosts
by KID Sun Mar 20, 2011 10:53 am

» Tìm kiếm driver qua Device ID
by KID Thu Mar 17, 2011 9:18 pm

» Cửa hàng bật lửa Zippo Vạn An có hàng mới về
by van-an Tue Mar 15, 2011 2:50 pm


You are not connected. Please login or register

VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG VĂN CHƯƠNG SƠN NAM

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Gà_Con

Gà_Con
 Bronze Medal






Nhà Văn
Sơn Nam



VÙNG ĐẤT NAM BỘ  TRONG VĂN CHƯƠNG SƠN NAM Image003Tôi nhớ
cách đây vài năm trước, ba tôi có mượn ở
thư viện Westminster một tác phẩm của nhà văn
Sơn Nam, với tựa đề là Hương Rừng
Cà Mau. Thú thật, lúc đầu, tôi không chú tâm lắm,
nhưng hôm đó, muốn đọc sách mà lại bận
đi thư viện mượn, tôi mượn tạm tác
phẩm này của ba tôi đọc. Sau khi đọc xong câu
chuyện ngắn đầu tiên thì tôi đã không thể nào
buông tác phẩm Hương Rừng xuống
được nữa. Tôi có cảm giác như mình hoàn toàn
bị cuốn hút trong quê hương mà tôi không chưa bao
giờ có cái gì hết được biết, một
mảnh đất đầy những chuyện rừng,
chuyện đời, chuyện săn bắn, và tình
người trong thế giới hoang sơ, kỳ bí,
lạ lùng, thâm u của miền Cà Mau, của những con
người di dân Nam Bộ trong công cộng khẩn hoang
miền Nam, và những khúc chiết tình tiết giữa
người và người, giữa người và thiên
nhiên, giữa người và rừng trầm, sông sâu,
giữa người và thú
rừng hoang dã, giữa người và những đau
khổ sâu sắc lẫn hạnh phúc nhẹ nhàng và tâm
hồn bình dị của họ qua những câu chuyện
kể của ông, đã gây cho người đọc
phải bồi hồi xúc động, ngậm ngùi
đến tê buốt trái tim dù đã đặt tác phẩm
xuống rồi, nhưng vẫn còn phải ngơ ngẫn
vì những câu chuyện ngắn thâm sâu nhưng ẩn
dấu một tình cảm thắm thiết sâu đậm
của những con người
nông dân miền nam hiền lành và ít chữ của ông.
Trước khi chúng ta bước vào thế giới
đặc biệt của một thời đã qua của
những con người di dân Nam Bộ, cần cù, nhẵn
nại và đầy tính chất mạo hiểm, chúng ta hãy
dành chút thời giờ tìm hiểu nhà văn Sơn Nam qua
tiểu sử của ông.






Tiểu
Sử



Được
biết, nhà văn Sơn Nam, tên thật của ông Phạm
Minh Tây. Ông ra đời tại Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang. Theo vào ngày 11-12-1926. Theo
tư liệu của Wikipedia, hiện nay ông vẫn đang
sinh sống tại Sài Gòn. Ông học tại Cần Thơ,
sau đó, kháng chiến chống Pháp. Sau Hiệp Định
Genève 1954. Ông được nhiều người yêu,
gọi là “Ông già Nam Bộ”, “Pho tự điển sống
về miền nam”, hay là “Nhà Nam Bộ Học.” Theo nhà văn Trần Bách Thụ,
trong bản văn biên khảo, ông đã nói về nhà văn
Sơn Nam như sau. “Không chỉ là một nhà văn, nhà
khảo cứu với hàng chục tác phẩm
được yêu thích, nhà văn Sơn Nam còn là một pho
sử liệu sống về văn hóa, lịch sử, con
người vùng đất phương Nam thời khẩn
hoang. Mới đây, một bức tượng chân dung ông
đã được đặt tại Làng du lịch Bình
Quới như một sự ghi nhận những đóng góp
của ông đối với văn hóa Nam Bộ…”
Qua đoạn văn mà tôi đã
trích của nhà văn Trần Bách Thụ, chúng ta có thể
thấy rằng nhà văn Sơn Nam đã có một sự
đóng góp không nhỏ đối với nền văn hoá
Nam Bộ. Thiếu những mẩu chuyện này của ông,
những con người lưu lạc tha hương
như tôi, và hàng triệu người khác trên đất
người, kể cả những con người trong
thế kỷ trào lưu, hiện đại hóa với
những vô minh vật chất của thế giới ngày
nay, tại quê hương Việt Nam khi đọc
những tác phẩm của ông, có thể thấy
được một quê hương xưa kia, qua
những tác phẩm có thể được xem là
để đời, cho chúng ta thấy được
một miền đất Nam Bộ của ngày xưa, trong
công cuộc khẩn hoang đặc biệt, hiền hòa và
bình dân như con người Nam Bộ, và những mẩu
chuyện trong cuộc đời của họ, để
thấy được một giai đoạn lịch
sử của những con người Nam Bộ cần cù,
nhẵn nại, đầy tình người, đầy
sự mạo hiểm, đầy lòng nhân hậu
đối với mảnh đất mà họ đang khai
hoang, và những nỗi nhọc nhằn khốn khổ
của họ, mang mác như hương rừng U Minh, và sâu
sắc như tâm hồn bình dị của họ.






Tình
Người Trong Văn Chương Nhà văn Sơn Nam



Nếu
ai đã từng đọc qua những tác phẩm của
bậc lão thành nhà văn Sơn Nam, chúng ta phải công
nhận rằng, trong những câu chuyện kể về núi
rừng U Minh, đầy những câu chuyện bàng bạc
và thắm đượm tình người. Những áng
văn của ông, kể qua về những mẫu
đối thoại vụn vặt, tuy trà dư tửu
lậu về chuyện đời của những
người dân Nam Bộ nói lên tâm hồn mộc mạc
đơn sơ, nhưng đầy gắn bó, không rõ
rệt trên bề mặt nhưng vẫn ẩn tàng một
tình người sâu sắc trong trái tim của con
người Nam Bộ…



Ông
Cả gả con gái Út về rừng, vùng đất mà ông
nghe toàn chuyện đĩa kinh hoàng…



“Bà
Cả thở dài :



-
Tôi ngại quá. Mình có mụn con gái. Gả đi xa xôi không
nói làm gì. Ngặt xứ đó kỳ quái, hiểm nguy.
Nội cái tên Cạnh Đền nghe cũng dị
hợm...



-
Tưởng bà ngại điều gì chớ chuyện
đó thì dễ. Dân ở dưới hiền lành lắm.
Bộ thiên hạ ăn thịt con gái mình sao mà nguy hiểm?



-
Tức chết đi ! Nói vậy mà không hiểu ! Ông không
nghe người ta hát sao ?



Xứ
đâu hơn xứ Cạnh Đền,



Muỗi
kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh
canh.



Ông
Cả nghe qua, cười ngất hồi lâu. Bà Cả càng
sôi gan :



-
Ông cười tôi nói bậy à ? Ở xứ đó chạng
vạng là ai nấy phải vô mùng để... ăn cơm



-
Nhưng sự thật là họ ăn cơm sớm,
hồi cỡ bốn giờ chiều để khỏi
cần vô mùng. Bà nghe ai nói lại vậy ?



-
Ông có tài binh vực cho xứ Cạnh Đền. Dẹp
chuyện muỗi một bên, tôi bàn qua chuyện đỉa
để ông có giỏi thì cãi. Nè, tôi nghe nói... phen đó cô
dâu nọ ở chợ Cần Thơ gả xuống.
Cổ xuống bến làm cá, xong xuôi đem trút vô chảo,
nấu canh chua. Dè đâu chừng con đỉa đeo trong
khứa cá. Cô dâu nọ bị đuổi vì tội...
nấu canh chua bằng đỉa. Oan ức quá. Xứ
đỉa nhiều, đâu ai dè trước !”
Cô Út
Về Rừng”



Một nổi buồn mang mác của
người già Nam Bộ, gã con gái ở chốn rừng
thiêng nước độc, họa hoằn lắm mới
có cơ hội gặp con gặp rễ, kể cả
những đứa cháu ngoại dễ thương xinh
xinh, nhưng biết làm sao, ông phải ngậm ngùi ở tình
cảnh gả người con
gái về nơi chốn xa xôi… Đọc đoạn này
trong câu chuyện ngắn của nhà văn Sơn Nam, chúng ta
phải rung động xúc cảm…



“Ông Cả im lặng, nghĩ
đến cái ngày gần đất xa trời của mình.
Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh
quan tài ? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi
thân : Măng non mọc kề bên gốc. Phận ông có khác ;
con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi
kia làm sao được gần gũi để ông
thấy mặt lần đầu - và cũng là lần chót
- khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra,
ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa
tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong
tương lai vô biên vô tận
…“Cô Út
Về Rừng



Hay
nỗi đau của người cha bất lực
trước căn bệnh nan y của người con gái
xinh đẹp của ông…



“Ông
hương giáo đã hiểu nguồn cơn. Mớ tóc
rối nằm cuộng đống trên bàn khiến ông xúc
cảm, không che giấu được cơn buồn.
Chiếc gương mờ soi đôi má ửng của Hoàng
Mai, màu ửng đỏ lạ thường, không biến
đổi dầu khi nàng sợ hãi. - Từ hồi tấm
bé, làn da của Hoàng Mai mịn quá, bóng quá. Trăm sự
đều do đó mà ra... Ông thở dài, cũng như ông
đã thở dài hồi mấy năm trước, tuy gió
bấc về không lạnh lắm nhưng Hoàng Mai đòi
đốt lửa để sưởi rồi dẫm chân
lên than hồng mà cưòi. Ðêm đến, ông nghe tiếng rên
khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến
gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm đó,
tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi
mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh
mấy sợi tơ trăng buông xuống từng hồi,
khi gió rạt rào khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên
đầu vách. Bịnh của nàng, ông doán được,
ngặt không muốn nói rõ tên ra : bịnh nan y - bịnh cùi.
Ông chỉ khuyên con gái năng đi duốc vì ở rừng
này... "phong" nhiều lắm. “
Hương
Rừng
”.



Kể
cả nỗi ngượng ngùng của người thanh
niên lỡ trót yêu người con gái ở rừng hoang U
Minh, nhưng đành phải ngẫn mặt quay lưng
trước căn bệnh hiểm nghèo của nàng…



“Chú hiểu ý. "À té ra bấy lâu
nay ông hương giáo thương mình". Chú đánh
bạo tìm bàn tay nàng. Nàng lắc đầu : - Em hơi
mệt, như vậy... Rồi nàng nâng tay áo lên, thứ tay
áo lỏng thỏng quá rộng quá dài : - Anh nắm cái chéo tay
áo này, em cũng đủ vui rồi. Cảm động làm
sao ! Ngạc nhiên làm sao ! Một mùi hôi hám từ trong tay áo
bay ra. Khi níu cái chéo tay áo của người đẹp.
Tư Lập thấy rõ ràng bên trong : ngón tay của nàng
rụng mất hồi nào, chỉ có năm cuộn vải
nhỏ vấn khéo léo thay thế. Hôm sau, chú viện cớ
ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm
nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun,
chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về ở Long
Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến
rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh
buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không
trở lại thì không được…”
Hương
Rừng
”.



Nhà
văn Sơn Nam đã cho chúng ta thấy được
những hình ảnh trong cuộc đời của
người dân Nam Bộ mà người đọc cũng
phải cảm giác đau xót cho người ở cảnh
ngộ không lối thoát, nhưng họ vẫn nhẫn
nhục chịu đựng. Ngọn bút của ông thật
tài ba, làm thấm thấu cả tâm hồn, làm người
đọc muốn bật khóc trước nỗi đau
thương của một thời khai hoang ở vùng
đất âm u của người dân Nam Bộ.






Thú
Rừng Hoang Dã Trong Văn Chương Của Nhà văn
Sơn Nam.



Người
dân Nam Bộ phải đối đầu với những
con thú rừng chực chờ, có thể lấy mạng
của họ bất cứ lúc nào, nhưng họ vẫn
háo hức ngắm nhìn những con sấu trong ao hồ
đầy lau sậy.



Cái ao lớn ước một
công đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau
sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào những bức
tranh mầu xanh ấy những vệt đen chi chít : con thì
nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng
hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên
trời như họng súng thần công đại bác.
Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn
điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá . Duy có con
sấu già trợn mắt hướng về lũ
người rồi bò thối lui vào giữa lòng ao,
để thủ thế
.” (Bắt Sấu Rừng U
Minh Hạ)



Nhưng
họ vẫn không sợ hiểm nguy. Những con
người Nam Bộ của núi rừng U Minh Hạ, không
những phải đối đầu với cảnh
rừng thiêng nước độc, nỗi lo âu sinh kế, họ còn phải
đối đầu với những con thú rừng nguy
hiểm, có thể ăn thịt họ bất kỳ lúc
nào. Biết vậy, mà họ vẫn không hề có một
chút nao núng, chùn bước, hay động lòng…Sự
dũng cảm của họ được ghi chép qua ngòi
bút tài tình của nhà văn Sơn Nam.



Sấu bò lên rừng theo con
đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời,
ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng
đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu một
khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng :
như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn,
muốn há miệng cho rộng để nhả ra cũng
không được. Sau khi bị khúc mốp khóa miệng,
còn cái đuôi đập qua đập lại.”

(Bắt Sấu Rừng U Minh Hạ)



Họ
sống bằng đủ nghề, ngoài việc bắt cá,
nuôi ong, bắt sấu, ruộng nông, họ lưu lạc
nay đây qua mai đó qua nghề len trâu, kiếm cỏ cho
đàn trâu ăn giữa rừng hoang, lẫn lộn
với voi và cọp. Chỉ cần họ sơ xuất,
hơn nửa gia tài của họ có thể bị mất
hết.



“Từ Ba Thê cả bầy trâu len
qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa ! Voi đi
một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai
ba con là nhiều ; cảnh đó ở miệt rừng ai
cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm
ba trăm con, đen đầu, đặc nước...”
(Mùa Len
Trâu
)



Nhưng
có người vẫn vui sống, dù chiến tranh, dù
mất mát, đau khổ chụp xuống người
họ…Họ vẫn vui thú với cái nghề giăng câu
của họ, vừa để độ sinh độ
nhật, vừa tận hưởng cái thú tiêu dao giữa
đất trời và sông nước, như trường
hợp của ông lão giăng câu ở Rừng U Minh Hạ.



“Đứa con trai độc
nhứt của ông đã bị "A lơ măn"
(người Ðức) giết lúc phải cầm súng giữ
vùng An Sác Lo Ren cho Pháp. Ta có thể nói : ông mù vì khói lửa
của trận Âu châu đại chiến kỳ nhứt.
Còn lại một mình, ông cất căn chòi ở Rộc Lá,
ấp Tây Sơn. Có người chất vấn “Ðã mù sao còn
giăng câu được ? “Ông đáp “Mù lòa là mắt không
thấy, chớ nào phải vô tri vô giác ? Con người có
thể thấy bằng lỗ tai, bằng hai bàn tay,
bằng mũi... Mình đây đui mù, như thiếu cây
cột cái, nhưng nếu khéo léo một chút cũng cất
được mái nhà nhỏ che gió che mưa... hà huống
là việc giăng câu ! Giăng câu lúc ban đêm, cặp
mắt không cần thiết. Người không mù, họ
đốt lửa trước xuồng un muỗi cho vui
mắt, ấm lòng, chớ nào phải soi đường
đi. Ðó là chưa nói tới loài cá! Nó ở dưới
nước, núp trong cỏ, người có mắt cũng
như tôi, làm sao thấy cá được. Phải dùng óc
xét đoán để hiểu tánh ý của nó, nhờ đó
mình mới giăng được nhiều cá, ngày càng vui
thú với nghề nghiệp của mình.” (
Người
Mù Giăng Câu
)


Chúng
ta có thể thấy được một giai đoạn
lịch sử của những người dân Nam Bộ
trong công cuộc khai khẩn núi rừng Cà Mau. Đọc
văn của nhà văn Sơn Nam, làm ta càng gợi thêm
nỗi nhớ nước nhớ nhà, nhớ quê
hương, nhớ cả đến cảnh rừng
một thời mà cha ông của chúng ta đã dầy công xây
dựng, dù phải hy sinh cả thân mạng họ, một
miền Nam Bộ chỉ còn lại phảng phất
lại trong tâm tưởng của kẻ lưu lạc
xứ người, và một xứ Nam Bộ, những
người đã trưởng thành trên mảnh
đất Hoa Kỳ cũng
phải kinh ngạc ở một giai đoạn lịch sử
của quê hương Việt Nam vào một thuở
thật xa xưa mà họ chưa từng được
biết đến.



Tôi
xin được kết thúc bằng những vần
thơ của nhà văn Sơn Nam.



“Tới
Cà Mau - Rạch Giá



Cất
chòi, đốt lữa giữa rừng thiêng...



Muỗi,
vắt nhiều như cỏ,



Chướng
khí mù như sương.



Thân
không là lính thú



Sao
chưa về cố hương?



Chiều
chiều nghe vượn hú,



Hoa
lá rụng, buồn buồn …



Phong
sương mấy độ qua đường phố,



Hạt
bụi nghiêng mình nhớ đất quê...”



-Sơn
Nam.



Xin
cảm tạ nhà văn Sơn Nam, đã cho tôi
được biết được giai đoạn
lịch sử đó của núi rừng Nam Bộ qua ngòi bút
đầy tình người của ông…
Xin hết
lòng tạ ơn ông…

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết