Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Khóa tài khoản 7 ngày đối với bất kì thành viên nào có bài viết quảng cáo đăng sai quy định.

Latest topics

» Công ty T.V.C An Giang thiết kế website miễn phí cho doanh nghiệp
by teenlx Tue Apr 05, 2011 11:58 pm

» Du học Nhật ước mơ của có thể thực hiện
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:06 pm

» SỢ VỢ
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:04 pm

» về với yêu thương
by Khách viếng thăm Wed Mar 23, 2011 2:25 pm

» Khẳng định đẳng cấp tại 12BET
by dona11102 Tue Mar 22, 2011 8:45 pm

» Những mẫu bikini tôn thờ vóc dáng sexy
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:26 pm

» 9X Ngọc Trinh bỏng mắt với bikini
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:24 pm

» 12BET- Nơi hội tụ những đẳng cấp
by dona11102 Mon Mar 21, 2011 9:30 pm

» [Tổng hợp] Portable Video Software (Không cài đặt. Download -> Run)
by KID Sun Mar 20, 2011 11:37 am

» Cập nhật cách vào facebook bằng cách chỉnh sửa file hosts
by KID Sun Mar 20, 2011 10:53 am

» Tìm kiếm driver qua Device ID
by KID Thu Mar 17, 2011 9:18 pm

» Cửa hàng bật lửa Zippo Vạn An có hàng mới về
by van-an Tue Mar 15, 2011 2:50 pm


You are not connected. Please login or register

Nét đặc trưng trong trang phục nông dân Nam bộ

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Gà_Con

Gà_Con
 Bronze Medal

Nét đặc trưng trong trang phục nông dân Nam bộ 31

Khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, trang phục của cư dân
vùng này không có gì khác biệt so với trang phục ngoài Bắc. Sau này,
khi tiến dần về phương Nam thì trang phục của cư dân Đàng Trong đã có
những điểm khác biệt so với trang phục của cư dân Đàng Ngoài.

Đặc biệt là từ khi nhóm người Hoa vào Đàng Trong năm 1680, trang
phục của cư dân bản địa đã có những đổi thay nhất định. Sự khác biệt rõ
nhất có lẽ do công cuộc cải cách trang phục của Thế Tôn Hiếu võ Hoàng
đế tạo ra.

Điều này đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định thành thông
chí như sau: “Duy có người Việt ta noi theo tục cũ Giao chỉ: người quan
chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, hạng sĩ
thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo vắn tay bâu
thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai dùng một miếng vải
buộc từ sau lưng thẳng đến dưới háng quanh lên đến rún, gọi là cái khố,
con gái có người không mặc váy, đội nón lớn, hút điếu binh, ở nhà thấp,
trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn ghế. Năm Mậu Ngọ (1738) Thế Tôn
Hiếu võ Hoàng đế định lại sắc phục, các quan văn võ châm chước theo chế
độ của đời Hán Đường, đến Đại Minh thì hình thức mới chế như phẩm phục
quan chế ngày nay đã ban hành theo trong Hội điển, gồm đủ cả văn chất.
Còn y phục gia thất khí dụng của hàng sĩ thứ đại lược như thể chế đời
Minh”.



Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích là vạt ngắn, không bâu,
gần vạt áo có thêm hai túi to khá tiện lợi Người nông dân ở đồng bằng
sông Cửu Long ngày xưa thường vận bộ bà ba đen đi đồng bởi nó vừa sạch,
vừa dễ giặt giũ


Đến đời chúa Thế Tông Nguyễn Phước Khoát lại có một biến động lớn
trong việc cải cách trang phục. Triều đình quy định cư dân Đàng Trong
phải ăn mặc như người Tàu, phụ nữ mặc quần chứ không còn mặc váy như
người Đàng Ngoài.


Cho đến nay, về cơ bản, cách mặc của cư dân đồng bằng sông Cửu Long
khá thống nhất với các vùng miền trong cả nước. Nhưng do đặc điểm địa
hình, thời tiết, khí hậu, mà người dân nơi đây vẫn có những bộ trang
phục đặc trưng.


Cư dân đồng bằng sông Cửu Long bao đời nay sống chủ yếu dựa vào
nông nghiệp, mà cuộc sống nông nghiệp thì buộc con người suốt ngày phải
“bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, quanh năm chân lấm tay bùn, lại
gặp điều kiện thời tiết hai mùa mưa nắng rõ rệt nên không mấy thích hợp
cho việc ăn mặc sang trọng. Do đó, màu sắc trong trang phục của người
dân nơi đây ngày xưa thường có gam chủ đạo là đen, nâu sậm, màu trắng
ít khi được chọn, trừ khi đi đám tiệc, lễ hội. Ngày xưa, để nhuộm vải,
người ta dùng lá bàng, vỏ trâm bầu, trái mặc nưa... để nhuộm, rồi phủ
bùn nhằm chống thôi màu. Có một thời, chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn
từng là phục sức phổ biến của người dân.

Cho đến nay, chưa thấy có tư liệu nào xác định rõ nguồn gốc của
chiếc áo bà ba. Người ta chỉ biết rằng, vào đầu thế kỷ XX loại áo này
đã được mặc khá phổ biến cả vùng Nam bộ. Theo nhà văn Sơn Nam thì “Bà
Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa. Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa
thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba”. Một quan
niệm khác lại cho rằng “Có thể áo bà ba ảnh hưởng, cách tân từ áo lá và
áo xá xẩu may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo
cứng, xẻ giữa, cài nút thắt... Phải chăng do thời tiết quanh năm nóng
bức, họ bỏ luôn chiếc cổ thấp của áo lá và áo xá xẩu, mang thêm áo
quanh chân cổ cho chắc. Áo xẻ giữa thay vì cài nút thắt đã được làm
khuy, cài nút nhựa do ảnh hưởng phương Tây”.


Người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long ngày xưa thường vận bộ bà
ba đen đi đồng, bởi nó vừa sạch, vừa dễ giặt giũ. Vải may là loại vải
một, vải ú, vải sơn đầm... rất mau khô sau khi giặt. Bên cạnh đó, chiếc
áo bà ba được xẻ ở hai bên hông làm cho người mặc cảm thấy thoải mái,
gần vạt áo có thêm hai túi to khá tiện lợi cho việc đựng những vật dụng
nhỏ như thuốc rê, diêm quẹt, tiền bạc... Chính nhờ tính tiện dụng và sự
thoải mái đó, chiếc áo bà ba được cả nam lẫn nữ ở đồng bằng sông Cửu
Long mặc cả lúc đi làm, đi chợ, đi chơi. Riêng lúc đi chơi, họ thường
chọn màu sắc nhẹ hơn như màu trắng, màu xám tro. Còn các cô, các bà thì
chọn màu mạ non, xanh lơ nhạt... với chất liệu vải đắt tiền hơn như
the, lụa...


Sau này, nhất là ở thời kỳ những năm 1960-1970, áo bà ba truyền
thống được phụ nữ thành thị cải tiến, vừa dân tộc, vừa đẹp và hiện đại
hơn. Áo dài bà ba hiện nay không thẳng và rộng như xưa, mà được may
hẹp, nhấn thêm eo bụng, eo ngực cho ôm sát lấy thân hình. Ngoài ra,
người ta còn sáng tạo các kiểu chắp vai, cổ tay, cửa tay, riêng các
kiểu bâu (cổ) lá sen, cánh én, đan tôn... là được tiếp thu từ kiểu y
phục nước ngoài.

Nét đặc trưng trong trang phục nông dân Nam bộ 32

Các kiểu ráp tay cũng được cải tiến. Từ kiểu may áo cánh xưa, liền
thân với tay, người ta nghĩ tới cách ráp tay rời ở bờ tay áo. Trong
những năm 1970, thành thị miền Nam phổ biến kiểu ráp tay raglan, đã tạo
nên vẻ đẹp hiện đại cho chiếc áo dài bà ba truyền thống. Với kiểu vai
raglan này, hai thân áo trước và sau tách rời khỏi vai và tay áo, trong
khi tay và áo lại liền từ cổ tới nách. Bà ba vai raglan chỉ cần may
khít, vừa vặn với eo lưng, không quá thắt như kiểu áo trước đó. Tay áo
dài hơn nhưng hơi loe, có khi người ta bỏ cả hai túi ở vạt trước để tạo
cho thân áo nhẹ nhõm, mềm mại hơn.



Theo các nhà nghiên cứu, chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người Khmer



Còn chiếc khăn rằn cũng là hình ảnh hết sức quen thuộc của người
phụ nữ ở đồng bằng sông Cửu Long. Không rõ nó ra đời từ bao giờ, nhưng
nó đã đồng hành cùng những con người thời khai hoang mở cõi phía Nam
của Tổ quốc. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành hình ảnh
hết sức quen thuộc và gần gũi với mọi người, như là một biểu tượng cho
người phụ nữ đồng bằng sông Cửu Long cần cù, đáng yêu.


Theo các nhà nghiên cứu thì chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người
Khmer và trong quá trình cộng cư của các dân tộc trên vùng đất đồng
bằng sông Cửu Long, nó đã được chuyển thành thứ trang phục đặc trưng
của nhiều dân tộc khác. Chiếc khăn rằn thường có hai màu đen và trắng
hoặc nâu và trắng. Hai màu này đan chéo nhau, tạo thành ô vuông nhỏ,
trải dài khắp mặt khăn và có lẽ các lằn ngang dọc ấy là gốc gác của tên
gọi khăn rằn. Chiếc khăn rằn có chiều dài khoảng 1,2m, rộng chừng
40-50cm, không cầu kỳ, sặc sỡ mà rất đỗi bình dị, giản đơn.


Trước khi có sự du nhập của các loại trang phục từ phương Tây thì
chiếc khăn rằn đóng vai trò chủ chốt trong lối ăn mặc của những người
dân xứ này. Không chỉ người lao động lam lũ, mà cả những điền chủ,
người giàu có cũng sử dụng nó. Không chỉ có phụ nữ, mà nam giới cũng sử
dụng loại khăn này. Phụ nữ vắt gọn khăn trên đầu, còn đàn ông cột ngang
trán, chừa hai đuôi khăn nhô lên đầu, nút khăn nằm ở phía trước. Khăn
cũng được quàng trên cổ, một đầu thả trước ngực, một đầu thả sau lưng.
Đôi khi hai đầu được buông xuôi xuống phía trước, đi với bộ quần áo bà
ba làm nên nét đặc trưng rất duyên của cư dân Nam bộ.

Nét đặc trưng trong trang phục nông dân Nam bộ 20090710_955c1974d576a3434f91BNq9r4iD9MzH

Khi gia đình nào có giỗ chạp, trong lúc lớp trẻ lăng xăng dọn bàn,
nấu bếp để chuẩn bị đãi khách thì các cụ bà ngồi lại với nhau trên bộ
ván ngựa trò chuyện về công ăn việc làm, về ruộng vườn, sức khỏe, cuộc
sống gia đình... Miệng móm mém nhai trầu, thỉnh thoảng các bà lại lấy
khăn đã quấn sẵn ở cổ quệt ngang miệng rồi tiếp tục câu chuyện. Các cụ
ông thì quây quần bên bàn trà hoặc quanh bàn cờ tướng, cũng áo bà ba,
cũng khăn rằn vắt vai.


Nam giới khi làm việc đồng thường lấy khăn buộc ngang trán, lật
ngửa hai đầu khăn đưa lên trời để ngăn mồ hôi không chảy xuống mặt mà
cản trở công việc. Đến khi mệt, họ bước lên bờ đê, tìm gốc cây tựa lưng
nghỉ mệt. Lúc này khăn mới được lột xuống để lau mồ hôi ở trán, ở mặt,
ở cổ... Các cô gái trong khi cày cấy, hay gánh mạ trên đồng cũng thường
quấn khăn ở cổ, nếu đổ mồ hôi thì sẵn có khăn lau ngay.



Trong các dịp hiếu hỷ, người Nam bộ thường chọn áo dài khăn đóng làm lễ phục



Riêng trong các ngày lễ thì trang phục của người dân Nam bộ tề
chỉnh, ngay ngắn, lịch sự hơn. Bộ trang phục được xem là lễ phục phổ
biến ngày xưa là bộ khăn đóng áo dài may bằng loại vải đắt tiền (thường
thì áo dài bằng xuyến hay lương đen, còn quần thì màu trắng bằng lụa
hay vải). Bộ trang phục này thường được mặc khi dự lễ cúng đình hay đám
cưới, các dịp hiếu hỷ...

Trang phục lễ tang thường có màu trắng làm màu chủ đạo, vì đó là
màu tang tóc. Vải để may đồ tang là loại vải thô, thưa mà dân gian
thường gọi là vải tám. Vải này rất rẻ tiền, không bền, không đẹp, cốt
để biểu thị tình cảm của người đang sống đối với người đã khuất với ý
nghĩa cha mẹ hoặc ông bà mất rồi, con cái quá đau buồn không thiết đến
việc ăn mặc nữa. Áo tang phải được may trở sống ra ngoài. Con là nam
thì đầu đội mũ rơm, nữ thì đội mấn, những người họ hàng thân thích thì
chỉ quấn vòng khăn tang ngang đầu.


Ngày nay, cuộc sống đã thay đổi nhiều, xã hội phát triển, đời sống
cao hơn, nhu cầu mặc ấm đã được nâng lên thành mặc đẹp. Mặc dù vậy,
chiếc khăn rằn và chiếc áo bà ba không hề mất đi mà nó vẫn đang tồn
tại, tạo thành nét đặc trưng riêng của người dân vùng đồng bằng sông
Cửu Long và là một minh chứng hùng hồn cho bản sắc văn hóa của người
dân xứ này.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết