Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Khóa tài khoản 7 ngày đối với bất kì thành viên nào có bài viết quảng cáo đăng sai quy định.

Latest topics

» Công ty T.V.C An Giang thiết kế website miễn phí cho doanh nghiệp
by teenlx Tue Apr 05, 2011 11:58 pm

» Du học Nhật ước mơ của có thể thực hiện
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:06 pm

» SỢ VỢ
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:04 pm

» về với yêu thương
by Khách viếng thăm Wed Mar 23, 2011 2:25 pm

» Khẳng định đẳng cấp tại 12BET
by dona11102 Tue Mar 22, 2011 8:45 pm

» Những mẫu bikini tôn thờ vóc dáng sexy
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:26 pm

» 9X Ngọc Trinh bỏng mắt với bikini
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:24 pm

» 12BET- Nơi hội tụ những đẳng cấp
by dona11102 Mon Mar 21, 2011 9:30 pm

» [Tổng hợp] Portable Video Software (Không cài đặt. Download -> Run)
by KID Sun Mar 20, 2011 11:37 am

» Cập nhật cách vào facebook bằng cách chỉnh sửa file hosts
by KID Sun Mar 20, 2011 10:53 am

» Tìm kiếm driver qua Device ID
by KID Thu Mar 17, 2011 9:18 pm

» Cửa hàng bật lửa Zippo Vạn An có hàng mới về
by van-an Tue Mar 15, 2011 2:50 pm


You are not connected. Please login or register

Cong Cuoc Khai Hoang o Nam Bo

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

1Normal Cong Cuoc Khai Hoang o Nam Bo Sat Jan 16, 2010 12:45 pm

Gà_Con

Gà_Con
 Bronze Medal

Đúng ra, việc khai hoang miền Đông Nam Bộ buổi ban đầu là do di dân
người Việt tự động vượt biển vào đây tìm đất lập nghiệp không có sự can
thiệp hay tổ chức gì của các chúa Nguyễn.



Chỉ từ năm
1698, khi Nguyễn Hữu Kính (có sách gọi là Cảnh) theo lệnh chúa Nguyễn
Phúc Chu vào "kinh dịch" (tổ chức việc quản lý hành chính, kinh tế, xã
hội) thì đất Đông Phố (tên cũ gọi chung đất Biên Hòa - Gia Định ngày
nay) mới bắt đầu chịu sự cai trị của các chúa Nguyễn, và dân số ở đây
đã có hơn 10.000 hộ với 200.000 khẩu.



Vì vậy, nét đặc
trưng độc đáo nhất của đất Nam Bộ là ngay từ đầu và trong suốt 300 năm
sau, đều thuộc quyền tư hữu của nông dân hay điền chủ, chứ không bao
giờ thuộc quyền sở hữu tập trung của nhà vua như ở miền Bắc, miền
Trung, mặc dù về danh nghĩa quy định đất đai là tài sản của nhà vua.
Không phải chỉ dưới thời các chúa Nguyễn trong các thế kỷ XVII, XVIII
mà ngay cả dưới thời các vua Nguyễn từ thế kỷ XIX trở đi, để khuyến
khích dân đẩy mạnh khai hoang, vua quan triều Nguyễn vẫn mặc nhiên thừa
nhận quyền tư hữu đất đai của những người có công khai phá. Trong Gia
Định thành thông chí một tác phẩm được viết đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài
Đức đã phản ảnh lại tình hình này như sau: "Dân ở vùng này đều có thể
tự do đi khai khẩn đất ruộng ở các vùng khác, ai muốn đến ở đâu, khai
khẩn ruộng gò, ruộng thấp ở nơi nào tùy ý. Lựa chọn đất đai rồi chỉ cần
khai báo với nhà cầm quyền là mình trở thành nghiệp chủ khoảnh đất ấy,
chính quyền cũng không đo đạc xem diện tích bao nhiêu, không cần biết
đất ấy tốt xấu thế nào. Người nghiệp chủ tùy theo điền sản mình chiếm
rộng hẹp mà tự nguyện nộp thuế nhiều hay ít và nộp thuế bằng thóc dùng
hộc già hay hộc non đong cũng được".

Chỉ từ thế kỷ XVIII trở
đi, khi có những đợt di dân khẩn hoang lớn do chính quyền nhà Nguyễn tổ
chức, do binh lính thực hiện, hay do "dân có vật lực" chiêu mộ đi khẩn
hoang lập đồn điền thì tình trạng di dân tự do khai hoang mới không còn
dễ dàng nữa.

Như vậy là quá trình khai hoang châu thổ Nam Bộ dưới thời nhà Nguyễn đã được tiến hành qua ba giai đoạn theo ba phương thức:
Giai
đoạn đầu trong thế kỷ XVI đến năm 1698, do từng nhóm nhỏ di dân người
Việt ở miền Bắc, miền Trung đi lẻ tẻ vào theo hai hướng đường biển và
đường bộ, chỉ dừng lại ở miền Đông khai khẩn những vùng đất cao ven
sông, nơi có nước ngọt hay ở những vùng giáp ranh con nước giữa ngọt
mặn mới có thể sinh hoạt và trồng trọt.

Giai đoạn hai là dưới
thời các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII, XVIII (từ 1698, đến cuối thế kỷ
XVIII). Trong giai đoạn này phương thức từng nhóm nhỏ đi lẻ tẻ vào khai
hoang vẫn còn tiếp tục, nhưng chủ yếu đã thêm hai phương thức mới:

Một
là, việc khai hoang lập đồn điền của binh lính quan lại và kẻ giàu có -
"dân có vật lực" - chiêu mộ dân từ Đàng Trong vào lập nên những điền
sản lớn - những đồn điền quân sự hay dân sự.

Hai là, do các
đoàn quân tướng người Hoa, nguyên là quan lại nhà Minh không chịu khuất
phục nhà Mãn Thanh, bỏ chạy sang Việt Nam xin tị nạn làm ăn. Họ cũng
tiến hành khai khẩn đất hoang phát triển nghề nông lúc đầu, nhưng chủ
yếu chỉ nhằm phục vụ cho việc tồn tại của họ để về sau xây dựng chợ
búa, phố xá, đô thị, đẩy mạnh việc mua bán, phát triển thành các vùng
Cù Lao Phố, Nông Nại đại phố và Cảng Mang Khảm - Hà Tiên sầm uất phát
đạt một thời.

Giai đoạn ba dưới các thời vua triều Nguyễn
trong thế kỷ XIX (1802 - 1883) Sau khi thắng Tây Sơn, lên ngôi vua năm
1802, Gia Long vẫn tiếp tục đẩy mạnh việc khai hoang ở đồng bằng sông
Cửu Long trên cơ sở các chúa Nguyễn đã đạt được trong thế kỷ XVII,
XVIII với tốc độ nhanh hơn, nhất là với các công trình đào kênh lớn như
kênh Rạch Giá - Hà Tiên, kênh Vĩnh Tế... Nhà Nguyễn đẩy mạnh tốc độ
khai hoang trong thế kỷ XIX nhằm 3 mục tiêu:

Một là, mở mang đất đai canh tác để phát triển sản xuất lương thực, đồng thời để tăng thêm nguồn thu tô thuế.

Hai
là, để bảo đảm an ninh quốc phòng nhất là vùng biên giới phía Tây,
thường có quân Xiêm quấy phá và dân bản địa vùng Ba Xuyên - Tịnh Biên
cũng đã từng nổi dậy chống nhà Nguyễn. Việc khai hoang, lập đồn điền,
đào kênh rạch ở vùng này nhằm mục đích chính yếu là kiểm soát, đề phòng
và khống chế sự xâm lược của quân Xiêm và sự chống đối của dân địa
phương.

Ba là, phát triển giai cấp địa chủ làm chỗ dựa cho chính quyền nhà Nguyễn ở Nam Bộ.

Sự
quan tâm đặc biệt của các vua triều Nguyễn về việc đẩy mạnh khai hoang
ở Nam Bộ thể hiện rõ trong con số tỷ lệ sau đây: Từ năm 1802 đến 1855,
nhà Nguyễn đã ban hành 25 sắc dụ về việc tổ chức khai hoang trên toàn
quốc, trong đó có đến 16 sắc dụ cho Nam Bộ, hai ở miền Bắc, một ở Kinh
kỳ và sáu ở nơi khác.

Nhà Nguyễn cũng đã có nhiều biện pháp khai hoang tích cực:

Trước
hết, vẫn khuyến khích di dân tự do khai phá đất hoang bằng nhiều thủ
tục dễ dãi và tự do lựa chọn nơi khai phá, thậm chí vẫn còn trợ cấp
thêm tiền thóc, nông cụ, có lệ khen thưởng bằng tiền và phẩm hàm chức
sắc cho những ai khai hoang nhiều với các mức cụ thể từ 20 mẫu đến 800
mẫu, và cũng có lệ phạt bằng tiền, trừ lương và phạt đánh từ 60 trượng
đến 100 trượng đối với các quan chức có trách nhiệm mà để ruộng đất bỏ
hoang nhiều hay ít.

Hai là, ra lệnh cho quan lại địa phương
phải bảo đảm mức khai hoang lập làng mới để phát triển nông nghiệp và
bảo đảm an ninh quốc phòng, nhất là ở vùng biên giới với chính sách
được miễn thuế 3 năm nay hay lâu hơn và được thưởng phạt rõ ràng nghiêm
khắc.

Ba là bản thân triều đình cử những đại quan đứng ra tổ
chức binh lính hay mộ dân khai hoang lập đồn điền, xây dựng làng ấp, và
đào những công trình thủy lợi quy mô để phát triển nông nghiệp và giao
thông đường thủy.

Do đó, công cuộc khai hoang đào kênh phát
triển nông nghiệp ở Nam Bộ dưới thời các vua Nguyễn nổi lên 3 đặc điểm
đáng chú ý sau đây:

Một là, triều đình cử đại quan trực tiếp thực hiện.

Hai là,
với những công trình thủy lợi quy mô lớn bằng hệ thống kênh mương nhân
tạo thích hợp để giải quyết tích cực việc dẫn thủy nhập điền phát triển
nông nghiệp.

Ba là, bên cạnh lực lượng cá nhân nhóm nhỏ
lẻ tẻ tiểu nông và quân lính quan lại triều đình, lực lượng "dân có vật
lực" chiêu mộ người nghèo đi khai hoang lập ấp ngày càng nhiều do chính
sách khen thưởng khích lệ tích cực của triều đình, tạo ra tầng lớp điền
chủ mới đông đúc, đưa đến tình trạng tranh giành, kiêm tính, chiếm đoạt
ruộng đất, làm cho quá trình tập trung tích tụ ruộng đất bắt đầu với
những điền chủ lớn có điền trang, điền sản mênh mông.

Cộng cả
3 lực lượng với những biện pháp và phương thức năng động tích cực nói
trên, công cuộc khai hoang phát triển nông nghiệp ở Nam Bộ trong thời
gian này đã đạt được những thành quả to lớn hơn 2 thế kỷ trước mà chủ
yếu là mở rộng thêm đồng bằng miền Tây. Theo kết quả đo đạc của các đại
thần Trương Đăng Quế, Nguyễn Kim Bảng, Trương Minh Giảng vào năm 1836
để lập điền bộ chính thức đầu tiên của 6 tỉnh thuộc Gia Định thành ghi
rõ trong Quốc triều chính biên toát yếu thì tổng diện tích đất đai đã
khai phá được của toàn Nam Bộ lúc bấy giờ là: "Nguyên trưng điền thổ
20.197 sở, 13 giây 8 đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền
thổ khoảng hơn 60.075 mẫu và nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay
khám thành ao nuôi cá cả thảy 1.017 miếng". Về sau đến năm 1869, thực
dân Pháp có công bố lại về con số này là 591.100 mẫu tức là 295.550 ha
(trong Annuaire de la Cochinchine).

Con số cụ thể có thể thêm
bớt ít nhiều, nhưng qua ba giai đoạn khai hoang trên 300 năm đã lần
lượt hình thành 5 trung tâm phát triển nông nghiệp xung quanh những
trung tâm đô thị sầm uất.

Khu vực dọc theo trục giao thông
thủy bộ Mô Xoài - Bà Rịa - Trấn Biên (Biên Hòa - Đồng Nai) mà tâm điểm
có thời là Cù Lao Phố, một thương cảng lớn nhất ở miền Nam lúc bấy giờ.
Hệ thống địa điểm định cư phát triển nông nghiệp của vùng này là Bà
Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân Uyên, Thủ Đức, Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm,
Nhà Bè, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu...

Khu vực vùng Bến Nghé - Sài
Gòn (Phiên Trấn). Sài Gòn hay Sài Côn mà trước là Prei Noker, mà ngày
nay là Chợ Lớn. Đây là một vùng canh tác nông nghiệp lúa nước rộng lớn,
kéo dài, bao trùm cả ngoại vi Bến Nghé, Sài Gòn, Cần Đước đến Gò Công,
Cửa Đại, Ba Lai. Lấy tên là vùng Bến Nghé - Sài Gòn vì Bến Nghé - Sài
Gòn là tâm điểm của vùng này. Suốt 300 năm qua đây là một trung tâm
thương mại, một thương cảng, một đô thị lớn nhất của Nam Bộ và miền
Nam. Tâm điểm này nối liền với Cù Lao Phố. Nó nằm cạnh ranh trấn Gia
Định, an ninh được bảo đảm hơn, thị trường mua bán rộng rãi hơn, nên nó
phát triển rất nhanh, thay thế vị trí Cù Lao Phố suốt thế kỷ XVIII, XIX
trở đi.

Vùng Ba Giồng (bao gồm một phần 2 huyện Phước Long,
Tân Bình và bao trùm cả vùng Vũng Cù tức Tân An và Vàm Cỏ ngày nay).
Đây là vùng đất canh tác nông nghiệp rất tốt, năm 1679 chúa Hiền đã cho
phép Dương Ngạn Địch đem 1.000 quân lính và gia nhân đến khai phá lập
nghiệp ở đây. Đến năm 1741 vùng này đã phát triển sung túc, nhiều thóc
gạo. Kho lúa Cam Lạch (một trong chín kho lớn toàn quốc) đã được thiết
lập ở đây để thu tô thuế tải về kinh.

Khu vực trung tâm đồng
bằng sông Cửu Long ven sông Tiền, sông Hậu đến tận ven sông Vàm Cỏ gọi
là vùng Mỹ Tho - Long Hồ (Vĩnh Long - Mỹ Tho - Cần Thơ - An Giang).
Vùng đất này có một tầm quan trọng đặc biệt về cả hai phương diện chiến
lược: bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nông nghiệp. Tiền Giang
và Hậu Giang là đường chuyển quân chính yếu giữa miền Nam và Cao Miên.
Đây là vùng đất phì nhiêu màu mỡ rất tốt, quanh năm có nước ngọt, mùa
lũ không ngập, một vùng đất lý tưởng để làm ruộng, trồng màu, trồng dâu
nuôi tằm, trồng cau, dừa và các loại cây trái đặc sản. Về sa, đã sớm
trở thành vựa lúa giàu có nhất nước. Đây cũng là vùng giàu có nhất nước
về cây ăn quả, về thủy hải sản. Ba nền văn minh về nông nghiệp của Nam
Bộ chủ yếu cũng xuất hiện phần lớn ở vùng này. Đó là văn minh lúa nước,
văn minh miệt vườn và văn minh kênh rạch Nam Bộ.

Khu vực Mang
Khảm - Hà Tiên - Phú Quốc - Rạch Giá - Cà Mau còn gọi là vùng Hương
Uúc, Trảng Ké, Cần Bột, Gi Khê... Vùng này do quân lính và gia nhân
cánh Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ khai khẩn và phát triển thành một thương
cảng phồn vinh rất sớm. Phần nông nghiệp chỉ là thứ yếu của một số thổ
dân và người Việt di cư đến đây từ trước. Còn cánh quân người Hoa của
Mạc Cửu chỉ lo buôn bán và mở sòng bạc.

Nhìn chung lại, triều
Nguyễn có công khai phá đất hoang, đào kênh mương, phát triển nông
nghiệp ở vùng đất Nam Bộ của họ, mặc dù người thực hiện công việc này
chủ yếu là nhân dân lao động, là di dân người Việt dưới sự điều hành
trực tiếp của một số đại thần tài năng trung thực hết lòng vì dân vì
nước như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại, Trần
Đình Túc... Trong đó việc cần đặc biệt nhất đáng nhấn mạnh là việc tổ
chức đo đạc, vẽ lại bản đồ, lên sổ địa bạ đầy đủ, rõ ràng đất khai phá
được ở Nam Bộ. Có thể nói đây là một công lao to lớn đối với việc mở
mang khai khẩn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế văn hóa Việt Nam
nói chung, kinh tế nông nghiệp nói riêng.

Ngay trong những sổ
địa bạ lúc bấy giờ, các vua triều Nguyễn đã sớm xác định chủ quyền đất
đai của nước ta tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Phú
Quốc. Trường Sa đã được ghi rõ thuộc địa bộ Gia Định Thành.

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết