Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Khóa tài khoản 7 ngày đối với bất kì thành viên nào có bài viết quảng cáo đăng sai quy định.

Latest topics

» Công ty T.V.C An Giang thiết kế website miễn phí cho doanh nghiệp
by teenlx Tue Apr 05, 2011 11:58 pm

» Du học Nhật ước mơ của có thể thực hiện
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:06 pm

» SỢ VỢ
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:04 pm

» về với yêu thương
by Khách viếng thăm Wed Mar 23, 2011 2:25 pm

» Khẳng định đẳng cấp tại 12BET
by dona11102 Tue Mar 22, 2011 8:45 pm

» Những mẫu bikini tôn thờ vóc dáng sexy
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:26 pm

» 9X Ngọc Trinh bỏng mắt với bikini
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:24 pm

» 12BET- Nơi hội tụ những đẳng cấp
by dona11102 Mon Mar 21, 2011 9:30 pm

» [Tổng hợp] Portable Video Software (Không cài đặt. Download -> Run)
by KID Sun Mar 20, 2011 11:37 am

» Cập nhật cách vào facebook bằng cách chỉnh sửa file hosts
by KID Sun Mar 20, 2011 10:53 am

» Tìm kiếm driver qua Device ID
by KID Thu Mar 17, 2011 9:18 pm

» Cửa hàng bật lửa Zippo Vạn An có hàng mới về
by van-an Tue Mar 15, 2011 2:50 pm


You are not connected. Please login or register

Hết Thời Oanh Liệt - Tác giả: Sơn Nam

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Gà_Con

Gà_Con
 Bronze Medal

Non trăm năm về trước, làn sóng người Việt Nam từ Cần
Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang. Họ đã
gặp những trở ngại thiên nhiên nào? Tài trí, sự dũng cảm của họ ra sao?
Lòng chúng ta không khỏi phập phồng âu lo khi ngày nay đọc lại quyển
Truyện Đời Xưa của cụ Trương Vĩnh Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp ở
vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt đuôi
trong bụi dừa nước...
Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng hành dám bỏ rừng
sâu, bén mảng đến các xóm nhà sát mé sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất
thế nhứt. Ông cha ta đã đánh đuổi lũ cọp ấy như thế nào? Có người đáp:
nhờ các thầy võ giỏi chuyên môn đánh cọp xuất thân ở các trường võ Quảng
Nam, Quảng Ngãi. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, các thầy chạy vào vùng Cà
Mau mà ẩn lánh. Võ nghệ của các thầy quá đỗi cao cường, gặp cọp là rượt
bắt lại, nắm gáy đè xuống, nện vào lưng cọp những quả đấm thôi sơn chẳng
khác nào chúng ta ngày ngay đánh một con mèo hoặc một con chó con...
Người
khác bảo rằng: họ đã từng gặp mấy ông thầy bùa Xiêm, chuyên môn dụ dỗ
cọp. Các thầy Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây giữa rừng mà thổi kè, nói đúng
hơn là thổi vào một miếng lá tre. Tức thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quỳ
xuống hầu hạ canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức dậy, thầy xiêm võ về
từng con, nhổ vài sợi râu hoặc vài sợi lông để nuôi sâu. Lông cọp, râu
cọp được đem về cắm trong măng tre đang mọc. Vài hôm sau thì ô hô, mỗi
sợi là một con sâu. Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt
đỏ hói, mình mảy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người nuôi nó
trong một cái hũ kín mít để giữ nhà. Khi có khách đến sâu cọp nhảy dựng
trong hũ nghe rổn rảng rồi la hét! Ngoài ra, cứt của loại sâu này rất
quý giá vì nó là vị thuốc độc, giết người trong nháy mắt. v.v...
Sự
thật ra sao?
Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị tiêu diệt hoặc bị
xua về Bảy Núi, về Tà Lơn phải chăng là nhờ các thầy võ Quảng Nam hoặc
các thầy Xiêm có bùa phép?
Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt là đến
tìm các ông bà lão hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà Ban. Mấy ông này
nếu không trực tiếp đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy và nghe rõ ràng hơn
chúng ta. Vậy xin mời các bạn đọc thân mến đến phỏng vấn và nghe các ông
trả lời.
- Thưa ông, ông xuống đây lập nghiệp từ hồi nào?
- Ðiều
đó không nhớ chắc chắn ngày tháng. Nhưng mà mấy cháu nên nhớ: hồi Tây
đánh nước mình, miệt Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển, có ghe
đánh lưới của người Hải Nam. Còn trong đất liền chỉ có mấy nhóm người
Triều Châu, Phước Kiến qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ ở gần chợ Rạch
Giá, chợ Bạc Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài sóc người Miên ở giữa đồng.
Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà
không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất
nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Tàu Dừa, Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao này, ở
miệt dưới đã có vườn tược, có cau lão rồi. Nhưng đó là chuyện xa xôi,
cách mình một khoảng rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ tôi chưa từng
đi tới.
- Lúc đó miệt Trà Ban này phải chăng là hoàn toàn không có ai
ở?
- Sự thật như vậy. Vài nhà người Miên ở tận giữa đồng nhưng họ
không làm ăn chung đụng với người mình. Kỳ dư, ven sông Cái Lớn này toàn
là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban ngày,
chừng vài trăm trước là thấy sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng,
nghe cọp rống, mấy ổng úp mặt xuống đất nên có tiếng dội...
- Hồi mới
tới cất nhà, chắc cọp khuấy rối mình dữ lắm!
- Không có! Không có!
Mình ngu dại gì vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi. Làm như vậy có hai
điều lợi. Một là trong mấy ngọn rạch không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài
theo mé sông cái, bề sâu vô chừng hai ba ngàn thước... Phía trong toàn
là sậy, đế, cây mốp, rừng chồi. Mình có thể phá gấp sậy để đó để làm
ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Ðiều lợi thứ hai là ở xa cọp. Lúc
mới xuống làm ăn, mình cần sự yên ổn. Hơi đâu mà lo chuyện đánh cọp,
trong lúc mình không rành võ nghệ.
- Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ cọp
dữ lắm. Cọp ưa tìm người mà ăn thịt...
- Vài người lo xa. Họ rào
chung quanh chuồng heo. Sợ nhứt là khi mình đi ruộng, cọp lén vào nhà
bắt con nít. Lần đó, cọp tới sàn nhà tôi chạy vòng quanh tìm cách vô
nhà. Ðứa con tôi ở một mình. Nghe tiếng động đậy nó chạy ra sát hàng
rào. Cọp ta không phương thế nào vào trong được nên day lại, thò đuôi vô
kẽ hàng rào. Trưa về nhà nghe con tôi nói lại: “Ba ơi! Hồi ba đi ruộng,
có con vèo vện lại đây, thò đuôi vô. Con nắm đuôi mà nó mạnh lắm, kéo
ra được chạy vuột.” Chừng đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ xây hàng rào
chung quanh nhà. Ðêm cũng như ngày chỉ nghe động tịnh là nghĩ tới cọp.
Nhưng dân mình gốc ở hai huyện Cần Thơ, Vĩnh Long xuống đây. Ở đó, đất
khai khẩn lâu đời rồi nên phần đông nghe tới tên cọp là sợ chớ ít ai
thấy tường tận ông cọp lần nào. Có một cô nọ ngồi rửa chén sau nhà, thấy
cái tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy vô nhà, đóng cửa lại: “Má ơi,
cọp! cọp!.” Hỏi cọp ra sao. Cô ta nói nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng nó
rằn. Chừng xem kỹ lại rõ ràng là tàu cau... Có bà lão khác ngồi câu cá
dưới gốc cây xộp. Cọp trong rừng men chạy ra chụp một cái. Bà nọ té nhào
bên một gốc cây. Nhờ vậy mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy cong đuôi vô
rừng. Bà ngồi dậy mở mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà nói lại. Bữa
nay xui xẻo quá. Câu cá không được con nào, nhè gặp heo rừng ra nhát.
Chừng cả nhà hồ nghi trở ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là dấu móng cọp.
Kể
từ đó, thiên hạ ưa bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại. Có người bàn: nên
thành lập một đội binh để vô rừng đánh cọp. Công việc đầu tiên là đốn
tre tầm vông vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm
xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe qua, dường như có lý. Nhưng sau
đó, ở rạch Cái Cam, Phong Ðiền, Cần Thơ, có người xuống cho hay: “Ở xứ
tôi, có bố trí như vậy nhưng thất bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy
xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng, trụ hình một chỗ. Thinh không, ổng
hét lên. Tức thì ai nấy chạy tán loạn. Có người thiếu điều đổ ruột vì
chạy càn đụng nhằm ngọn tầm vông của bạn mình. Về sau, có người gài bẫy
được một ông cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng cọp để đâm. Dè đâu cọp
nhai nát như... mình ăn mía.”
Vậy làm thế nào mà đánh cọp đến đỗi
không còn sót một con như ngày nay?
- Chuyện đó phải làm lần hồi. Bố
trí một đạo binh đánh cọp không xong, dân xóm này mới bày đặt cất miễu
thờ cọp. Ðó là ngụ ý: “Chúng tôi là người làm ăn, không dám đả động tới
ông, xin ông cứ ở trong rừng để chúng tôi được yên ổn!.” Cất miếu xong,
chạng vạng có người tới đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp đi vòng quanh
miếu, đứng nhìn nhang rồi về. Bữa sau đem ra cũng một cái đầu heo rừng.
Cọp mừng lắm. Từ đó xóm giềng được yên.
Nhưng tạo hoá vần xoay, dân
miệt trên xuống đây khai khẩn ngày thêm đông.
Ðất giữ đồng khai thác
hết. Bấy giờ chỉ còn là đất rừng sát mé sông, nơi cọp ở. Ðó là hồi nguy
nan nhất cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều người làm gan cất nhà sát
mé rừng. Ban đầu, đôi ba nhà, sau, năm mười nhà. Họ thấy ở gần rừng mé
sông tuy là nguy hiểm nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong, làm rẫy. Một
công rẫy trúng mà được tới một trăm hai chục giạ khoai lang. Lúc này,
nhiều người chết vì đi một mình vô rừng bị cọp chụp bất thình lình. Họ
sắm mác thông, thứ có cán dài để ứng phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con
người khó bề xoay trở để thủ thế.
Thời thế tạo anh hùng. Bận đó, ông
thầy râu -thầy thuốc Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy Râu- có đứa con
gái bị cọp vồ. Tức mình ông cầm mác rượt theo tận giữa rừng, chém cọp
rớt một cẳng. Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo nái. Chú rượt theo cầm
cự với cọp suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu nên mới thoát nạn. Từ
đó về sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt luôn luôn đỏ ngầu.
Kinh nghiệm
là không nên đánh cọp nơi chật chội, tứ bề có cây cối. Cọp sợ con người.
Bằng cớ là ở giữa đồng trống, mình cầm mác thét lớn là cọp chạy mất. Vì
vậy, khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ.
Rạch Cái Bần này lần hồi còn sót lại được ông Mun.
- Tại sao ông Mun
dám ở lại?
- Vì ông thuộc về lại cọp già, đã từng chống chọi nhiều
phen với loài người. Cọp nhỏ thì đi. cọp già ở lại. Thứ già là thứ dữ.
Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên đặt
tên. Có hai ông, Ông Vện với Ông Mun. Vện là cọp đực. Ông Mun là cọp
cái.
Trời đất dành riêng cho đôi cọp này số phận riêng. Trước hết xin
nói về ông Mun.
Thường ngày ông tới lui vàm Xẻo Gừa - một xẻo nhỏ,
có cây gừa to lớn, nhỏ gừa (rễ thòng xuống) buông xuống hàng trăm cây to
bằng cổ tay, bằng cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát cốc, chung quanh có nhỏ
gừa che chở nhiều lớp.
Ông dạn lắm. Sáng đi, chạng vạng về. Tháng Tư
năm đó, ông sanh được bốn ông Mun con...
Thật là khủng khiếp, lạ
thường. Xưa nay, cọp sanh một hay sanh đôi là cùng. Ðàng này sanh tới
bốn con. Dân làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng một ngày kia bốn ông
Mun nhỏ lớn lên, sung sức.
Phải đối xử bằng cách nào?
Bắt bốn ông
Mun con chăng? Chuyện đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường đi tìm mồi, để bầy
con bơ vơ ở gốc cây gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ sẽ đổ quạu, trả thù,
gây nhiều chuyện bất an cho xóm.
Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy
Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri Khách lừa bày ra một kế: bắt bớt ba,
chừa lại một.
Thi hành xong, ba ông đem ba con cọp nhỏ về nhà. Xóm
giềng rất đỗi vui mừng. Nhưng ba ông không yên trí, sợ ông Mun mẹ đánh
hơi theo tìm con để trả thù...
Sau rốt, các ông mua nhang đèn về dựng
bàn thờ trước nhà mà khấn vái:
- Xin trình cúng ông Mun được hay:
Thói thường xưa nay một mẹ thì một con. Ðằng này, ông sanh tới bốn con.
Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa lúc ông đi vắng có tới xin bớt ba con,
chừa lại cho ông một con. Như vậy không mích lòng ông mà cũng không hẹp
bụng chúng tôi.
Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm thét, rồi vài hôm
sau dẫn đứa con còn lại đi đâu mất.
Bây giờ làm sao để nuôi ba ông
cọp con nọ?
Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại, bò tới bò lui, cái
lưng uốn éo như con mèo lớn. Tối ngày, mấy cậu cứ đòi sữa. Biết được
chuyện ấy, người đàn bà động lòng, xúm xít lại, đặt mấy cậu ngồi giữa bộ
ván, ai nấy ngồi vòng quanh mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu đánh hơi
rồi từ từ bò ngay lại người đàn bà nào có sữa để đòi bú. Bà chủ H. cho
bú thử. Kết quả, vài ngày sau vú sưng lên làm độc, đau sứt núm vú, bấy
giờ thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, chở ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp
cho quan phó chủ tỉnh. Ông phó tên Quitxy thưởng cho hai mươi lăm đồng
bạc trắng.
- Còn ông Vện?
- Ông Vện có lẽ là chồng ông Mun cha của
mấy cậu nọ. Phải chăng vì già nua bịnh hoạn mà ông Vện không theo vợ
theo con. Buổi sáng đó người ta thấy ông Vện nằm dài trên bờ rẫy, sát mí
rừng. Ban đầu ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời lên cao ngạc nhiên
làm sao, ông vẫn nằm ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm lại gần, lấy đất
chọi thữ rồi lấy cây dài đem cọc, chừng đó mới biết ông chết. Họ thui
râu của ông, lấy thước đo ông dài một thước sáu. Người khác đòi, khiêng
lên cân thử. Các bậc kỳ lão cản ngăn, cho rằng làm vậy là quá khinh thị
mạt sát kẻ đã chết.
Rạch Cái Bần không còn cọp nữa. Các rạch khác
cũng nỗ lực như vậy. Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương ngày đêm từ ngọn
Cái Cau đến vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời xưa:“U Minh Rạch
Giá thị quá sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp tha
” không
còn. Ghe xuồng tàu bè tấp nập, bọn sấu phải lui về vàm. Cũng thời câu
hát xưa, thiên hạ sửa lại như vầy:
”Ðường đi Rạch Giá thị quá sơn
trường, Gió run bông sậy, dạ buồn nhớ ai.”

Bông sậy là nơi đã
khai thác thành rầy. Lòng dạ con người thơ thới hơn. Không còn sợ cọp,
sợ sấu. Họ rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ ai bây giờ? Trai nhớ gái.
Vợ nhớ chồng. Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để tạo lập
nên làng nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa.
Chẳng qua
là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít. Sự
thật về chuyện đánh cọp Gò Quao là vậy. Nó dễ mà khó, khó mà dễ. Người
đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ không cần bia đồng
tượng đá. Vậy mà về sau này có bao nhiêu người tự xưng là thầy đánh cọp
thời xưa để hát thuật Sơn Ðông, bán thuốc trật gãy xương hoặc bán bùa
Xiêm để dụ dỗ gái tơ.
Thiệt đáng trách biết chừng nào!


Sơn
Nam

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết