NÉT TRỤ: là nét kéo thẳng đầy mạnh mẽ.
[img]http://img.huongtinhyeu.net/files/dyrhx1yomg5ytb1lxzyv.jpg[img]
NÉT TẤN: là nét kéo ngang cũng đầy uy lực
NÉT PHÁC: gồm các nét phác ngang, dọc, xéo...Khi viết thì khởi bút, hành bút nhưng không có nét dừng bút mà được kéo đi luôn.
NÉT VÒNG: là những nét khởi đầu và được kéo lại thành vòng nét cuối hướng về nét khởi đầu.
NÉT MÓC: là những nét được khởi bút móc vòng xuống nhưng cuối nét không hướng về nét khởi, và khi thu bút không dừng lại mà kéo bút lên tạo ra một đường nhọn cuối nét.
NÉT KÉO: là những nét mỏng kéo dài theo hướng ngang, dọc hoặc vòng.
NÉT LƯỢN: là ngững nét cong gọp lại theo đường gợn sóng.
NÉT SƯỚT: là những khỏang trống trong một nét chữ được tạo ra từ những sớ cọ. Có hai lọai nét sướt: nét sướt ngọn và nét sướt bụng.
.Nét sướt ngọn được tạo ra khi kéo ngang bằng ngọn bút và ngọn cọ được tách ra rõ ràng tạo nên nét sướt cũng rõ nét.
.Nét sướt bụng khi nét kéo ngang bằng bụng của ngọn bút .
Khi thưởng lãm một tác phẩm trước khi xét về đường nét và nội dung thì điểm đặc biệt thu hút và có bắt mắt người xem hay không là ở phần trang trí và bố cục tác phẩm. Bố cục thư pháp Việt không trình bày từng chữ từ trên xuống và từng cột như thư pháp Hán, ngọai trừ viết theo dạng đối.
Một tác phẩm viết tràng giang đại hải không ý tứ thì không được xem là một bố cục đẹp. Các chữ viết không được quá khít và cũng đừng quá thưa thớt lõng lẻo. Nét này phải tương quan và bổ sung cho nét kia tránh trùng lập lên nhau gây khó đọc. Các chữ thường liên kết với nhau và tạo thành những khối có kết cấu.
Chữ viết được sắp xếp theo nguyên tắc chữ Việt bình thường, đọc từ trái qua, và xếp hàng từ trên xuống. Chữ cái đầu câu phải viết hoa hoặc được nhấn đậm nét.
Trong tác phẩm thư pháp không nhất thiết chỉ có chữ cái đầu câu hay danh tánh... mới được viết hoa theo lệ, những chữ quan trọng mang ý chính của tác phẩm có thể viết nhấn mạnh đậm nét hoặc viết to để thể hiện rõ ý của tác phẩm.
[img]http://img.huongtinhyeu.net/files/dyrhx1yomg5ytb1lxzyv.jpg[img]
NÉT TẤN: là nét kéo ngang cũng đầy uy lực
NÉT PHÁC: gồm các nét phác ngang, dọc, xéo...Khi viết thì khởi bút, hành bút nhưng không có nét dừng bút mà được kéo đi luôn.
NÉT VÒNG: là những nét khởi đầu và được kéo lại thành vòng nét cuối hướng về nét khởi đầu.
NÉT MÓC: là những nét được khởi bút móc vòng xuống nhưng cuối nét không hướng về nét khởi, và khi thu bút không dừng lại mà kéo bút lên tạo ra một đường nhọn cuối nét.
NÉT KÉO: là những nét mỏng kéo dài theo hướng ngang, dọc hoặc vòng.
NÉT LƯỢN: là ngững nét cong gọp lại theo đường gợn sóng.
NÉT SƯỚT: là những khỏang trống trong một nét chữ được tạo ra từ những sớ cọ. Có hai lọai nét sướt: nét sướt ngọn và nét sướt bụng.
.Nét sướt ngọn được tạo ra khi kéo ngang bằng ngọn bút và ngọn cọ được tách ra rõ ràng tạo nên nét sướt cũng rõ nét.
.Nét sướt bụng khi nét kéo ngang bằng bụng của ngọn bút .
Khi thưởng lãm một tác phẩm trước khi xét về đường nét và nội dung thì điểm đặc biệt thu hút và có bắt mắt người xem hay không là ở phần trang trí và bố cục tác phẩm. Bố cục thư pháp Việt không trình bày từng chữ từ trên xuống và từng cột như thư pháp Hán, ngọai trừ viết theo dạng đối.
Một tác phẩm viết tràng giang đại hải không ý tứ thì không được xem là một bố cục đẹp. Các chữ viết không được quá khít và cũng đừng quá thưa thớt lõng lẻo. Nét này phải tương quan và bổ sung cho nét kia tránh trùng lập lên nhau gây khó đọc. Các chữ thường liên kết với nhau và tạo thành những khối có kết cấu.
Chữ viết được sắp xếp theo nguyên tắc chữ Việt bình thường, đọc từ trái qua, và xếp hàng từ trên xuống. Chữ cái đầu câu phải viết hoa hoặc được nhấn đậm nét.
Trong tác phẩm thư pháp không nhất thiết chỉ có chữ cái đầu câu hay danh tánh... mới được viết hoa theo lệ, những chữ quan trọng mang ý chính của tác phẩm có thể viết nhấn mạnh đậm nét hoặc viết to để thể hiện rõ ý của tác phẩm.