Cù lao Giêng lưu giữ nhiều di tích, kiến trúc xưa từ thời Pháp thuộc - một nơi đáng để lữ khách phương xa dừng chân khám phá.
Cù
lao này nằm trên sông Tiền, giáp giữa Đồng Tháp và An Giang, với chiều
dài 12km và chiều rộng 7km, còn bốn bề thì sum suê cây trái,
Nổi
bật nhất của toàn cảnh cù lao Giêng là những kiến trúc tôn giáo đặc
trưng của thời kỳ Pháp thuộc. Nhà thờ Cù Lao Giêng, theo những cư dân
bản địa, đây là ngôi thánh đường đầu tiên của xứ Nam kỳ, là cầu nối
giữa các cha truyền đạo bên Cao Miên (Campuchia) và Việt Nam; đây cũng
là trạm trung chuyển các vật dụng cần thiết cho việc sinh hoạt và
truyền đạo bằng ghe đò lên miền thượng sang Campuchia. Ngôi thánh đường
mang lối kiến trúc rặt Pháp được gìn giữ cẩn thận còn nguyên vẹn, với
tháp chuông cao vút, các trụ cột thiết kế liên hoàn, kết hợp cùng các ô
gió và tháp nhỏ để tạo thành một kiến trúc nguy nga, hoành tráng.
Không
xa nhà thờ Cù Lao Giêng, những căn nhà xưa được xây dựng từ năm 1916,
mang lối kiến trúc nhà rường gỗ ba gian hai chái, tường gạch bao tứ
diện. Sân nhà là những chậu kiểng cổ mai chiếu thuỷ với dáng thế “tam
cang ngũ thường” – một lối kiểng cổ quen thuộc của người Nam bộ. Tất cả
được bảo tồn nguyên vẹn.
Song
song với những kiến trúc cổ của thánh đường, nhà xưa từ thời Pháp
thuộc, những ngôi chùa ở cù lao Giêng lại là nơi khách thập phương tứ
xứ tìm đến vãn cảnh, cúng viếng đông đúc mỗi ngày. Nổi nhất là chùa Ông
Đạo nằm, còn gọi là chùa Thành Hoa gốc người Đồng Tháp, tu theo Phật
giáo sau biến hoá dần, bày ra một hình thức tu luyện khác lạ.
Bình
lặng hơn trong không gian chùa chiền ở cù lao Giêng có chùa Phước Minh,
dân trong vùng hay gọi chùa Bà Vú. Ngôi chùa nổi bật giữa một màu xanh
cây trái là ngọn tháp cửu trùng (chín tầng) và chiếc cổng tam quan nằm
dọc ngay giữa con đường nhỏ vào chùa cũng là một điểm nhấn thú vị.
Trong
số những di tích kỳ lạ ở cù lao Giêng, có một khu mộ độc đáo gồm ba
phần mộ liền kề với lối xây dựng lạ mắt và độc đáo nhất trong kiến trúc
lăng mộ. Đây được gọi là phần mộ của “Ba quan thượng đẳng” – ba anh em
người cù lao Giêng, được mời ra kinh thành Huế phong chức vụ theo đường
binh nghiệp, rất có công với triều đình nhà Nguyễn, sau đó hy sinh
ngoài chiến trận và được vua Gia Long phong chức Ngọc Hầu.
Mộ
phần ba quan bố trí không đồng nhất nhau, một mộ mang hình con mực đầu
lượn ra phía cửa, mộ hình cá chép nằm ngược đang trở đầu uốn theo con
mực, và mộ hình con rùa cũng xoay theo con cá chép. Câu chuyện về mộ
phần với những sinh vật biển được bố cục kỳ lạ, đều có ngụ ý. Ba con
vật đọc theo Mặc – Lý – Quy (Mặc đọc theo âm Hán nghĩa là cá mực, là sự
im lặng), tức là “về trong im lặng”. Bởi vậy, tuy là võ tướng của triều
đình, có công lớn, nhưng phần mộ của ba vị tướng nhỏ nhoi, nằm lặng lẽ
giữa đồng, nay do người cháu trông coi và nắm giữ nhiều câu chuyện cụ
thể, thú vị về ba vị quan cũng như ý nghĩa của lăng mộ kỳ lạ này.
Đi
khắp xứ cù lao Giêng chỉ vỏn vẹn trong ngày, đói bụng ghé chùa làm bữa
cơm chay, nghe những câu chuyện thú vị do những người địa phương lưu
truyền lại quanh những địa danh, di tích - thực là một ngày vui đáng
nhớ.
Trường lang chùa Thành Hoa trang trí toàn bằng gốm Biên Hoà. |
Cù
lao này nằm trên sông Tiền, giáp giữa Đồng Tháp và An Giang, với chiều
dài 12km và chiều rộng 7km, còn bốn bề thì sum suê cây trái,
Nổi
bật nhất của toàn cảnh cù lao Giêng là những kiến trúc tôn giáo đặc
trưng của thời kỳ Pháp thuộc. Nhà thờ Cù Lao Giêng, theo những cư dân
bản địa, đây là ngôi thánh đường đầu tiên của xứ Nam kỳ, là cầu nối
giữa các cha truyền đạo bên Cao Miên (Campuchia) và Việt Nam; đây cũng
là trạm trung chuyển các vật dụng cần thiết cho việc sinh hoạt và
truyền đạo bằng ghe đò lên miền thượng sang Campuchia. Ngôi thánh đường
mang lối kiến trúc rặt Pháp được gìn giữ cẩn thận còn nguyên vẹn, với
tháp chuông cao vút, các trụ cột thiết kế liên hoàn, kết hợp cùng các ô
gió và tháp nhỏ để tạo thành một kiến trúc nguy nga, hoành tráng.
Không
xa nhà thờ Cù Lao Giêng, những căn nhà xưa được xây dựng từ năm 1916,
mang lối kiến trúc nhà rường gỗ ba gian hai chái, tường gạch bao tứ
diện. Sân nhà là những chậu kiểng cổ mai chiếu thuỷ với dáng thế “tam
cang ngũ thường” – một lối kiểng cổ quen thuộc của người Nam bộ. Tất cả
được bảo tồn nguyên vẹn.
Chùa Phước Minh với tháp chín tầng và cổng tam quan nằm dọc theo đường đi. |
Song
song với những kiến trúc cổ của thánh đường, nhà xưa từ thời Pháp
thuộc, những ngôi chùa ở cù lao Giêng lại là nơi khách thập phương tứ
xứ tìm đến vãn cảnh, cúng viếng đông đúc mỗi ngày. Nổi nhất là chùa Ông
Đạo nằm, còn gọi là chùa Thành Hoa gốc người Đồng Tháp, tu theo Phật
giáo sau biến hoá dần, bày ra một hình thức tu luyện khác lạ.
Bình
lặng hơn trong không gian chùa chiền ở cù lao Giêng có chùa Phước Minh,
dân trong vùng hay gọi chùa Bà Vú. Ngôi chùa nổi bật giữa một màu xanh
cây trái là ngọn tháp cửu trùng (chín tầng) và chiếc cổng tam quan nằm
dọc ngay giữa con đường nhỏ vào chùa cũng là một điểm nhấn thú vị.
Trong
số những di tích kỳ lạ ở cù lao Giêng, có một khu mộ độc đáo gồm ba
phần mộ liền kề với lối xây dựng lạ mắt và độc đáo nhất trong kiến trúc
lăng mộ. Đây được gọi là phần mộ của “Ba quan thượng đẳng” – ba anh em
người cù lao Giêng, được mời ra kinh thành Huế phong chức vụ theo đường
binh nghiệp, rất có công với triều đình nhà Nguyễn, sau đó hy sinh
ngoài chiến trận và được vua Gia Long phong chức Ngọc Hầu.
Vẻ thâm trầm, cổ kính của nhà thờ Rạch Sâu. |
Mộ
phần ba quan bố trí không đồng nhất nhau, một mộ mang hình con mực đầu
lượn ra phía cửa, mộ hình cá chép nằm ngược đang trở đầu uốn theo con
mực, và mộ hình con rùa cũng xoay theo con cá chép. Câu chuyện về mộ
phần với những sinh vật biển được bố cục kỳ lạ, đều có ngụ ý. Ba con
vật đọc theo Mặc – Lý – Quy (Mặc đọc theo âm Hán nghĩa là cá mực, là sự
im lặng), tức là “về trong im lặng”. Bởi vậy, tuy là võ tướng của triều
đình, có công lớn, nhưng phần mộ của ba vị tướng nhỏ nhoi, nằm lặng lẽ
giữa đồng, nay do người cháu trông coi và nắm giữ nhiều câu chuyện cụ
thể, thú vị về ba vị quan cũng như ý nghĩa của lăng mộ kỳ lạ này.
Đi
khắp xứ cù lao Giêng chỉ vỏn vẹn trong ngày, đói bụng ghé chùa làm bữa
cơm chay, nghe những câu chuyện thú vị do những người địa phương lưu
truyền lại quanh những địa danh, di tích - thực là một ngày vui đáng
nhớ.