Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Khóa tài khoản 7 ngày đối với bất kì thành viên nào có bài viết quảng cáo đăng sai quy định.

Latest topics

» Công ty T.V.C An Giang thiết kế website miễn phí cho doanh nghiệp
by teenlx Tue Apr 05, 2011 11:58 pm

» Du học Nhật ước mơ của có thể thực hiện
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:06 pm

» SỢ VỢ
by Mr.DuO Thu Mar 24, 2011 6:04 pm

» về với yêu thương
by Khách viếng thăm Wed Mar 23, 2011 2:25 pm

» Khẳng định đẳng cấp tại 12BET
by dona11102 Tue Mar 22, 2011 8:45 pm

» Những mẫu bikini tôn thờ vóc dáng sexy
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:26 pm

» 9X Ngọc Trinh bỏng mắt với bikini
by lotus Tue Mar 22, 2011 8:24 pm

» 12BET- Nơi hội tụ những đẳng cấp
by dona11102 Mon Mar 21, 2011 9:30 pm

» [Tổng hợp] Portable Video Software (Không cài đặt. Download -> Run)
by KID Sun Mar 20, 2011 11:37 am

» Cập nhật cách vào facebook bằng cách chỉnh sửa file hosts
by KID Sun Mar 20, 2011 10:53 am

» Tìm kiếm driver qua Device ID
by KID Thu Mar 17, 2011 9:18 pm

» Cửa hàng bật lửa Zippo Vạn An có hàng mới về
by van-an Tue Mar 15, 2011 2:50 pm


You are not connected. Please login or register

Tiểu sử danh tướng thời Tam Quốc

3 posters

Chuyển đến trang : 1, 2  Next

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 2 trang]

McCartney

McCartney
 Double Stars

Lã Bố (Lu Bu)


Lã Bố, tự là Phụng Tiên (đôi khi cũng được gọi là Lữ Bố và Lữ Phụng Tiên), người đất Cửu Nguyên (nay là thành phố Bao Đầu, nội Mông Cổ). Lã Bố là một võ tướng và là một quân phiệt cát cứ cuối đời Đông Hán. Lã Bố được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này Lã Bố được mô tả là một viên tướng hết sức dũng mãnh, chuyên sử dụng phương thiên họa kích. Người ta thường nói "Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố".

Cuộc đời
Giết cha nuôi, lại nhận cha nuôi
Trước Lã Bố là tướng của Đinh Nguyên, nhận làm nghĩa phụ. Nhưng sau Đổng Trác cho người là Lý Túc đem ngựa Xích Thố đến dụ, Lã Bố lại giết Đinh Nguyên và về với Đổng Trác, nhận làm con nuôi ông này. Lã Bố là dũng tướng của Đổng Trác giúp Đổng Trác thực hiện âm mưu cướp ngôi vua nhà Hán.
Mắc mỹ nhân kế
Trong phủ có quan tư đồ Vương Doãn bề ngoài cung kính nhưng ngấm ngầm lập mưu giết Đổng Trác. Vương Doãn biết hai cha con Lã Bố và Đổng Trác có tính hiếu sắc nên dùng kế ly gián trước, gả con gái nuôi là Điêu Thuyền cho Lã Bố sau là Đổng Trác gây nên mối bất hòa giữa hai cha con. Kết quả là Lã Bố giết chết Đổng Trác, lấy Điêu Thuyền làm thiếp.

Lập nghiệp riêng
Lý Thôi (Lý Giác) đem quân về báo thù cho Đổng Trác. Vương Doãn bị giết, Lã Bố bỏ chạy. Ông ta nương nhờ Viên Thuật, rồi Trương Dương, rồi Viên Thiệu, Trương Mạc. Lã Bố có các tướng giỏi là Trần Cung, Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá, đánh chiếm Bộc Dương của Tào Tháo. Nhưng sau đó Tào Tháo kéo đến, đuổi Lã Bố chạy về phía đông. Bố lại nương nhờ Lưu Bị, nhưng sau đó chiếm thành Hạ Phì của họ Lưu, từ đó hùng cứ ở Từ Châu

Cửa quan bắn kích
Viên Thuật đánh Lưu Bị, cho tiền Lã Bố để ngồi yên. Lưu Bị lại cầu cứu Lã Bố. Bố mời 2 bên đến uống trà. Lã Bố cho dựng một cây kích ở rất xa, nói rằng nếu bắn trúng ngạnh kích bì 2 bên phải bãi binh. Tướng của Viên Thuật là Kỷ Linh không dám nói, còn Lưu Bị cầu cho bắn trúng. Lã Bố nhắm bắn trúng ngay ngạnh kích, Kỷ Linh đành rút về.

Tráo trở liên tục
Viên Thuật xưng đế, định hỏi cưới con gái Lã Bố cho con trai mình. Lã Bố nhận lời, đưa con gái đi, nhưng giữa chừng lại theo phe Tào Tháo để được phong chức, đuổi theo đem con về. Lã Bố gây chiến với Viên Thuật, nhưng ít lâu sau chưa thấy được lên chức, lại chuyển theo Viên THuật, trở lại đánh Tào Tháo.

Liều mạng giữ cô thành
Năm 198, Lã Bố tấn công Lưu Bị, Tào Tháo đến cứu Lưu Bị. Lã Bố nghe lời vợ, ngồi nhà giữ thành, bị bao vây. Lã Bố lại cầu cứu Viên Thuật, nhưng Viên Thuật đòi gả con dâu mới đến cứu. Lã Bố giữ thành Hạ Phì, bị chính tướng lĩnh của mình phản bội, bắt nộp Tào Tháo. Nhưng trong bộ "Trung Quốc tướng soái toàn truyện" của Trịnh Phúc Điền, Dương Diệu Xuân và Khả Vĩnh Tuyết (Tập 1, trang 500), Lã Bố thấy thế lâm nguy, bảo bộ hạ lấy đầu mình đi dâng Tào Tháo lấy công, nhưng bộ hạ không nỡ làm. Lã Bố đành ra hàng.

Thằng Tai To kia!!
Đằng nào cũng vậy, Lã Bố bị trói đến trước mặt Tào Tháo, nói rằng "Thiên Hạ từ nay yên rồi!". Tào Tháo hỏi tại sao, Lã Bố nói "Có ta làm phó thống lĩnh kỵ binh, bình thiên hạ dễ như trở bàn tay". Tào Tháo định thả Lã Bố, nhưng Lưu Bị ngồi bên nói "Ngài quên Đinh Nguyên và Đổng Trác rồi ư?". Thế là Lã Bố bị đưa đi thắt cổ. Lã Bố còn quay lại chửi Lưu Bị: "Thằng tai to kia mới là không đáng tin nhất! Mày quên công ta bắn kích rồi ư?" Lã Bố cùng Trần Cung, Cao Thuận đều bị treo cổ. Trương Liêu và Tang Bá đầu hàng.

Tính cách

Trong truyện Tam quốc diễn nghĩa, Lã Bố là một kẻ bạc nghĩa vô tình, nhận Đinh Nguyên, Đổng Trác làm cha nuôi, rồi sau đó lại chính tay mình giết hại hai người này. Khi bị Tào Tháo đánh đuổi đã chạy về với Lưu Bị, được Lưu Bị coi trọng đối xử hậu hĩnh, nhưng khi Lưu Bị đi đánh Viên Thuật thì Lã Bố đã lợi dụng việc đó chiếm lấy đất của Lưu Bị, sau đó khi Lữ Bố bị Viên Thuật đánh thì lại gọi Lưu Bị trở lại giúp mình... Có thể nói Lã Bố là một kẻ bất hiếu với cha, bất nghĩa với bạn bè, bất tín với người đời, là một kẻ bất trí, hữu dũng vô mưu, nhiều lần đã bị thảm bại chỉ vì không chịu nghe lời khuyên của những kẻ hiền.

Tuy vậy, sự dũng mãnh, uy phong của Lã Bố thì không ai có thể phủ nhận. Có thể nói trong truyện Tam quốc diễn nghĩa, Lã Bố là tướng mạnh nhất trong tất cả các tướng, vượt trên cả Quan Vũ, Trương Phi, Hứa Chử, Điển Vi... cho đến mười mấy năm sau khi có sự xuất hiện của vị tướng Mã Siêu trẻ tuổi khiến Tào Tháo phải nhận định Mã Siêu mạnh không thua Lã Bố. Chính sự dũng mãnh đó đã giúp cho Lã Bố vang danh thiên hạ, ngay cả khi Lã Bố không nghe theo lời Trần Cung, bị trúng kế của Quách Gia, nhưng với sự kiêu dũng của mình Lã Bố vẫn có thể đảo ngược tình thế đến nỗi suýt nữa giết được Tào Tháo. Trong truyện thì sức mạnh của Lã Bố được ca ngợi qua lần một mình đấu với ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, hay một mình địch sáu tướng của Tào Tháo, trong đó gồm cả Hứa Chử và Điển Vi.

sưu tầm

P/s: topic này là để tổng hợp lại tiểu sử các danh tướng thời Tam Quốc, bạn nào biết gì thêm gì post bên dưới nhé, đặc biệt là miễn bàn luận gây loãng topic Tiểu sử danh tướng thời Tam Quốc 117420

McCartney

McCartney
 Double Stars

Tào Tháo ( 155 - 220 )

I>Thân thế

Tào Tháo là con Tào Tung. Cha ông vốn xuất thân trong gia đình bình thường, không có tiếng tăm, gia thế không được sử sách nêu rõ. Có ý kiến cho rằng Tào Tung nguyên có tên là Hạ Hầu Tung, sau làm con nuôi hoạn quan Tào Đằng nên lấy họ Tào.

Tào Đằng là một trong những Thái giám có thế lực trong triều đình Đông Hán, lần lượt phục vụ 5 đời vua Hán An Đế, Hán Thuận Đế, Hán Xung Đế, Hán Chất Đế, Hán Hoàn Đế và được phong chức Phí Đình hầu.

Tào Tung là con nuôi Tào Đằng, nhờ cha nên từng được giữ các chức vụ Tư Lệ hiệu uý, Đại Tư nông, Đại hồng lư. Vì triều đình hủ bại của Hán Hoàn Đế cho mua quan bán tước nên sau đó Tào Tung còn mua được chức quan Thái uý trong vài tháng.

II>Thời niên thiếu

Tào Tháo sinh ra tại huyện Tiêu, nước Bái trong gia đình giàu có, thuở nhỏ thích chơi bời phóng túng, thích săn bắn, ít chịu học hành và tỏ ra tinh ranh. Người chú ruột thấy Tào Tháo như vậy thường mách với Tào Tung về các việc làm của cháu. Tào Tháo biết vậy nghĩ cách, một lần giả bị trúng gió ngã lăn ra. Người chú chạy đi gọi Tào Tung, nhưng khi thấy cha đến thì Tào Tháo lại tươi tỉnh như bình thường. Tào Tung hỏi nguyên do, Tào Tháo nói rằng:

" Vì chú không thích con nên bày đặt điều xấu thôi "

Do đó Tào Tung không tin lời người chú mách tội của Tào Tháo nữa.

Về điểm này, Mao Tôn Cương khi bình Tam Quốc Diễn Nghĩa cho rằng Tào Tháo "từ nhỏ đã gian xảo cơ mưu", còn Nguyễn Tử Quang trong Tam Quốc bình giảng lại cho rằng: khuyết điểm cũng do ông chú của Tào Tháo vốn có thành kiến không tốt và ít tình cảm với cháu; nếu thấy cháu ngã mà ông chú bế ngay lên mang vào nhà gặp cha thì Tào Tháo không có cách gì lừa cha dối chú được.

Khi lớn, Tào Tháo vẫn thích chơi bời, khác hẳn với những sĩ phu trọng danh tiết, tuy vậy vẫn có những người kính trọng ông như Kiều Huyền, Hứa Tử Tương. Hứa Tử Tương đánh giá Tào Tháo là năng thần (quan giỏi) thời trị và gian hùng thời loạn.

III>Năng thần thời trị

Năm 20 tuổi, Tào Tháo thi đỗ Hiếu liêm. Ông được quan Kinh Triệu doãn là Tư Mã Phòng (cha của Tư Mã Ý) tiến cử giữ chắc Bắc bộ Uý (coi giữ phía bắc) ở kinh thành Lạc Dương đã nổi tiếng là người nghiêm túc. Sau khi đến nhiệm sở, ông cho đặt roi ngũ sắc trước cửa công đường, hễ ai phạm tội đều trị thẳng tay. Chú của đại thần Kiển Thạc là Kiển Thúc phạm tội vác dao đi đêm, ông sai bắt vào phủ đánh roi thẳng thừng không vì nể. Vì gia thế Tào Tháo rất lớn nên vụ việc này ông không gặp rắc rối, tiếng tăm ông cũng từ đó vang khắp kinh thành.

Sau đó, Tào Tháo giữ chức tướng quốc nước Tế Nam, ông lại liên tiếp đứng ra tố cáo các quan tham phạm pháp; sau đó lại phá hơn 600 ngôi miếu thờ mà triều đình không cho phép thờ cúng.

IV> Hiệp lực đánh Đổng Trác

Bỏ trốn

Năm 184, cuộc khởi nghĩa Hoàng Cân do Trương Giác lãnh đạo bùng nổ. Tào Tháo cùng các quân phiệt địa phương cùng các tướng trong triều đình đàn áp thành công, nên được Hán Linh Đế phong làm Điển quân hiệu uý trong triều.

Khi đó mâu thuẫn giữa phe ngoại thích do Hà Tiến đứng đầu và hoạn quan ngày càng gay gắt. Tào Đằng đã mất, Tào Tháo tuy xuất thân trong gia đình hoạn quan nhưng lại đứng về phía ngoại thích Hà Tiến. Năm 189, Hà Tiến bị hoạn quan lừa giết, Tào Tháo hợp sức với một thủ hạ khác của Hà Tiến là Viên Thiệu đánh vào cung, giết chết các hoạn quan.

Sau đó Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác - vốn trước được Hà Tiến triệu về kinh - khống chế triều đình, tự xưng là Thái sư. Năm 190, Tào Tháo được Đổng Trác phong lên chức Kiêu kỵ hiệu uý. Sau vài tháng, không rõ lý do gì, Tào Tháo bỏ trốn khỏi Lạc Dương.

Khi chạy tới Thành Cao phía bắc Trịnh Châu, Tào Tháo ghé vào nhà người quen là Lã Bá Sa. Do hiểu lầm, thấy nhà Lã Bá Sa mài dao định giết lợn, Tào Tháo tưởng là họ giết mình nên đã giết cả nhà Bá Sa.

Sau đó Tào Tháo chạy về phía đông tới huyện Trung Mâu. Có viên Bảo trưởng thấy ông có vẻ lén lút, cho rằng ông là đinh tráng trốn binh dịch bèn bắt giữ. Nhưng sau đó Tào Tháo được một viên Công tào cứu giúp, thuyết phục được Huyện lệnh Trung Mâu thả ông ra.

Tam Quốc Diễn Nghĩa tường thuật việc Tào Tháo ám sát Đổng Trác không thành mới bỏ trốn; được Trần Cung thả ở Trung Mâu trước và giết Lã Bá Sa khi đi cùng Trần Cung xảy ra sau; nhưng thực ra việc giết Bá Sa không có mặt Trần Cung và sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không.

Hợp binh với chư hầu

Tào Tháo từ Trung Mâu chạy về phía đông Trần Lưu. Đúng lúc đó Viên Thiệu phát hịch đi các trấn kêu gọi đánh Đổng Trác. Ông bàn mưu với Thái thú Trần Lưu là Trương Mạo khởi binh chống Đổng Trác. Bản thân Tào Tháo được Vệ Tư tặng tiền bạc để mộ quân. Con cháu họ Tào và họ Hạ Hầu đi theo Tào Tháo rất đông. Ông mộ được 5000 người, đi đánh Đổng Trác dưới quyền Trương Mạo; cùng đi theo Trương Mạo còn có Bão Tín cũng mộ được 2 vạn quân.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo chính là người hiệu triệu chư hầu chống Đổng Trác và không ở dưới quyền ai trong các lộ chư hầu.

Các chư hầu hội binh chống Đổng Trác khi đó có 10 lộ quân: Viên Thiệu (đứng đầu), Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo, Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Thái thú Ngô quận là Tôn Kiên không đến hội binh cũng hưởng ứng tự ra quân. Tào Tháo được Viên Thiệu cử làm Phấn Vũ tướng quân, ông lại xin với Viên Thiệu cử Bão Tín làm Phá lỗ tướng quân.

Trong khi Tôn Kiên đi tiên phong đánh Đổng Trác thì Viên Thiệu vẫn họp các chư hầu ở Hoài Khánh không hề tiếp ứng, chỉ mở tiệc uống rượu. Đổng Trác sợ uy thế các chư hầu nên tháng 3 năm 191 cũng bỏ Lạc Dương, mang Hán Hiến Đế chạy sang Tràng An, để Từ Vinh ở lại đóng quân cạnh Lạc Dương yểm hộ.

Thấy Đổng Trác đốt kinh thành bỏ chạy, Tào Tháo kiến nghị Viên Thiệu ra quân truy kích nhưng Thiệu không dám ra quân. Tào Tháo làm ầm lên trong hội nghị chư hầu đòi đi đánh. Trương Mạo cũng đồng tình, trách cứ Viên Thiệu trước chư hầu. Viên Thiệu bất đắc dĩ cho Tào Tháo vài ngàn quân đi. Khi chưa tiến đến Thành Quần, vì ít quân nên ông bị Từ Vinh đánh bại, quân chết quá nửa.

Tào Tháo chạy về Toan Táo tìm các chư hầu. Ông kiến nghị chư hầu chia quân: Viên Thiệu thống suất đại quân đánh Thành Cao, bao vây Lạc Dương; còn Viên Thuật thì ngầm đánh từ Nam Dương đánh úp vào cửa Vũ Quan, chiếm lấy Tràng An, cắt đứt đường tiến lui của Đổng Trác. Nhưng Viên Thiệu và các chư hầu bỏ ngoài tai lời kiến nghị của ông. Tào Tháo tức giận bỏ đi, chiêu mộ được thêm 4000 quân mã đi đánh Lạc Dương. Tuy nhiên giữa đường quân mới mộ làm phản. Dù Tào Tháo ra sức trấn áp, tuốt gươm giết chết vài chục người nhưng số đông vẫn tản đi, chỉ còn lại 500 quân theo ông.

Tào Tháo đành bỏ việc đánh Đổng Trác để xây dựng lại lực lượng. Các chư hầu do Viên Thiệu đứng đầu cũng chia rẽ và tan rã, đánh giết lẫn nhau.

V> Làm chủ Duyện châu

Dẹp Khăn Vàng

Trước khi liên minh đánh Đổng Trác tan vỡ, Tào Tháo đã mang tàn quân về quê, ra sức chiêu nạp hào kiệt. Khi đó dù 3 anh em Trương Giác đã chết nhưng lực lượng Khăn Vàng vẫn còn thế lực khá mạnh, có hơn 10 vạn người tụ tập ở Hắc Sơn, chiếm lĩnh Đông quận, triều đình chưa dẹp được.

Năm 191, Tào Tháo mang quân đánh nhau với quân Khăn Vàng tại Hắc Sơn. Quân khởi nghĩa tuy đông như ô hợp, bị Tào Tháo dùng kế đánh bại, song lực lượng còn mạnh.

Năm 192, quân khởi nghĩa tổ chức phản công. Tào Tháo dùng số quân nhỏ cố thủ ở phía đông Vũ Dương, tự ông mang quân chủ lực tập kích căn cứ Đông quận của địch. Ông đánh chiếm Đông quận và đây trở thành nơi căn cứ đầu tiên của họ Tào.

Không lâu sau, quân khởi nghĩa từ Thanh châu tấn công Duyện Châu, giết chết thứ sử Lưu Đại. Theo lời đề nghị của Bão Tín, Tào Tháo mang quân đến cứu Duyện châu. Nhân sĩ ở Đông quận là Trần Cung đến theo Tào Tháo, thuyết phục được các thủ hạ của Lưu Đại nhất trí tôn Tào Tháo thay Lưu Đại quản lý Duyện châu. Ông cùng quân Khăn Vàng quyết chiến tại Thọ Dương.

Bão Tín giao chiến bị tử trận. Tào Tháo mang 1000 quân tập kích doanh trại địch nhưng quân Khăn Vàng đã đề phòng khiến ông suýt bị bắt sống. Thấy không thể dùng chiến thuật đánh nhanh, Tào Tháo đổi hướng, đánh chắc từng phần. Ông áp dụng chiến thuật tiêu hao từng bước, quân Khăn Vàng phải lùi dần. Sau cùng, Tào Tháo dồn quân địch vào Tế Bắc và bao vây. Khi đó phía sau lưng quân Khăn Vàng là Thanh châu và Ký châu do Viên Thiệu chiếm giữ. Sau một thời gian, quân Khăn Vàng bị tuyệt lương, không còn đường chạy nên phải đầu hàng. Tào Tháo thu hàng 30 vạn người, chọn ra 10 vạn người đưa vào quân đội của mình. Từ đó lực lượng của ông mạnh lên đáng kể.

Tào Tháo làm chủ Duyện châu. chủ cũ của ông là Trương Mạo làm thái thú quận Trần Lưu là một quận thuộc Duyện châu cũng rất ủng hộ ông. Viên Thiệu ở Ký châu, thù Trương Mạo mắng mình trong hội nghị chư hầu, bèn gửi thư cho Tào Tháo khuyên ông giết Trương Mạo để trừ hậu họa. Tào Tháo không nghe, mang việc đó nói lại với Trương Mạo, vì vậy Mạo rất cảm phục ông.

Đánh Từ châu báo thù cha

Giữa năm 193, cha Tào Tháo là Tào Tung từ Lạc Dương tới Lang Nha định dưỡng lão, mang theo hơn 100 xe hành lý chứa nhiều vàng bạc châu báu; khi đi ngang qua Từ châu thì bị bộ tướng của Đào Khiêm - thứ sử Từ châu – là Trương Cương giết chết và cướp hết đồ. Đào Khiêm vốn trước không ủng hộ liên quân chư hầu chống Đổng Trác mà nhận chức do Trác phong; khi Trác bị giết (tháng 4 năm 193), Đào Khiêm vẫn ủng hộ triều đình Tràng An do thủ hạ của Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ nắm quyền. Vừa lúc đó ở huyện Hạ Bì thuộc Từ châu có quân khởi nghĩa của Khuyết Tuyên nổi dậy xưng đế, Đào Khiêm không ra tay đánh dẹp lại có liên hệ qua lại.

Tào Tháo nghe tin cha bị hại ở Từ châu, cho rằng Đào Khiêm đồng mưu sai khiến thủ hạ, lại lấy cớ Khiêm ủng hộ Lý Thôi và ngụy hoàng đế Khuyết Tuyên, bèn cất vài chục vạn quân đi đánh Từ châu để hỏi tội. Ông cũng muốn nhân đó chiếm luôn địa bàn Từ châu liền kề với Duyện châu để mở rộng thế lực nên thúc quân tấn công mạnh mẽ. Quân Tào chiếm lĩnh hơn 10 thành, sau đó đánh bại quân Đào Khiêm ở Bành Thành, chém hơn 1 vạn quân Từ châu, nước sông Tứ Thủy vì vậy không chảy được.

Đào Khiêm rút vào thành Đan Dương cố thủ, sai người đi cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Điền Khải lúc đó đang bị Viên Thiệu đánh, đã cầu cứu tướng giữ Bình Nguyên là Công Tôn Toản - người có mâu thuẫn với Thiệu. Toản sai Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi cứu Thanh châu. Nghe Đào Khiêm cầu cứu, Khải lại sai Lưu Bị cầm quân đi cứu Từ châu trước.

Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả đoạn Lưu Bị cứu Từ châu khá ly kỳ. Tác giả không nhắc việc Điền Khải đánh nhau với Viên Thiệu mà kể rằng Đào Khiêm cầu cứu Điền Khải và Khổng Dung; Dung sắp đi cứu lại bị quân Khăn Vàng của Quản Hợi vây đánh, lại phải cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị mượn quân Công Tôn Toản giải vây cho Khổng Dung rồi 2 người cùng Điền Khải đến cứu Đào Khiêm.

Lưu Bị có 4000 quân, chiêu hàng được vài ngàn nạn dân Ô Hoàn, rồi lại được Đào Khiêm cấp 4000 quân nữa, có hơn 1 vạn người, cùng Đào Khiêm thế thủ ở Đan Dương. Tào Tháo vây đánh nhiều ngày không sao phá được, bèn trút tức giận lên dân thường để trả thù cho cha. Ông ra lệnh tàn sát hơn 10 vạn người ở 5 thành Thủ Lự, Tuy Lăng, Hạ Khâu, Bành Thành, Phó Dương cùng các hương trấn sở thuộc. Không chỉ bản dân 5 thành mà nhiều người dân ở Thiểm Tây vì tránh nạn Lý Thôi, Quách Dĩ kéo về đó cũng bị hại.

Nghe tin Lã Bố đánh chiếm hậu phương Duyện châu, Tào Tháo đành mang quân trở về cứu.

Giao tranh với Lã Bố

Năm 194, Trần Cung và Trương Mạo ở Đông quận nghe tin Tào Tháo có hành động tàn sát, hại người vô tội, không phục ông nữa, quyết định phát động binh biến ở hậu phương ở Duyện châu và theo Lã Bố để chống lại ông. Lã Bố sau khi giết Đổng Trác ở Tràng An, bị Lý Thôi và Quách Dĩ đánh bật khỏi kinh thành, phiêu bạt qua chỗ Viên Thuật, Trương Dương và Viên Thiệu đều không được dung nạp, bèn chạy đến quận Hà Nội. Trương Mạo và Trần Cung đón Lã Bố về tôn làm thứ sử Duyện châu, giao cho 10 vạn quân.

Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh, mang quân chiếm các thành trì của Tào Tháo ở Duyện châu. Chỉ còn 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là Yên Thành do Tuân Úc giữ, Đông A do Cức Đê giữ và Phạm Huyện do Cận Long giữ, Lã Bố chưa đánh chiếm được.

Tào Tháo mang quân về lấy lại Duyện châu. Thấy Lã Bố chỉ chiếm lấy Bộc Dương mà không đóng quân ra các nơi hiểm yếu như Kháng Phụ, Tế Ninh và bến đò Hoàng Hà, Tào Tháo cho rằng Lã Bố vô mưu, có ý coi thường. Ông dẫn quân tấn công Bộc Dương.

Quân Tào Tháo phần đông là người Thanh châu mới theo hàng, không địch nổi quân Lã Bố. Lã Bố theo kế của Trần Cung đánh tan quân Tào ở Bộc Dương. Đại quân Tào Tháo bị thua lớn, doanh trại bị đốt cháy, bản thân ông bị bỏng cánh tay trái và suýt bị Lã Bố bắt sống. Trong bóng đêm, quân kỵ của Lã Bố đuổi đến nơi nhưng không biết mặt ông bèn hỏi Tào Tháo ở đâu, ông nhanh trí chỉ tay phía trước bảo rằng:

" Người cưỡi ngựa vàng chỗ kia là Tào Tháo "

Quân Lã Bố tiến lên phía trước truy đuổi, nhờ vậy Tào Tháo quay đầu chạy thoát nạn.

Sự kiện Tào Tháo gặp nguy cấp ở Bộc Dương được La Quán Trung mô tả tương tự trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng chiến sự lại diễn ra chủ yếu trong thành khi Lã Bố dùng mưu dụ Tào Tháo tiến vào.

Sau đó Tào Tháo thu quân trở lại, cùng Lã Bố giữ nhau hơn 100 ngày ở Bộc Dương không đánh. Đến mùa thu năm 194, ở Duyện châu có nạn châu chấu hại lúa nên bị mất mùa, cả hai bên đều bị thiếu lương. Tào Tháo phải rút quân về Yên Thành, còn Lã Bố thu quân về Sơn Dương.

Mùa đông năm 194, Tào Tháo mang quân về Đông A. Trong tình thế khó khăn, ông định phục tùng Viên Thiệu theo lời dụ nhưng mưu sĩ Trình Dục khuyên can không nên nghe theo mà nên tự lập.

Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố, dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Ông chia quân làm nhiều ngả, một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ ông lại tấn công Cự Dã, bao vây hai tướng của Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị.

Ở Duyện châu chỉ còn anh em Trương Mạo, Trương Siêu ở Ung Khâu và Tang Hồng ở Đông quận. Trương Mạo biết không thể chống được Tào Tháo, bèn gửi gia quyến cho Trương Siêu, sai giữ Ung Khâu, còn mình đi Thọ Xuân cầu cứu Viên Thuật. Giữa đường, Trương Mạo bị thủ hạ giết chết. Tào Tháo mang quân vây đánh Ung Khâu.

Tang Hồng được Viên Thiệu cử làm thái thú Đông quận thay Tào Tháo, sức yếu không cứu được Trương Siêu nên ngày đêm sai người đến Ký châu xin Viên Thiệu cứu Ung Khâu. Viên Thiệu nhất định không cứu Trương Siêu. Sau 4 tháng, Tào Tháo hạ được Ung Khâu, Trương Siêu tự sát. Tào Tháo giết hết gia quyến họ Trương. Tang Hồng vì việc này cũng tuyệt giao với Viên Thiệu và bị Viên Thiệu cử binh giết chết.

Tào Tháo tái chiếm được Duyện châu.

VI>Giữ lấy thiên tử, củng cố thế lực

Rời giá về Hứa Đô

Sau khi Đổng Trác bị Vương Doãn và Lã Bố giết (193), thủ hạ là Lý Thôi và Quách Dĩ mang quân đánh báo thù, đánh chiếm Tràng An, giết Vương Doãn và đuổi Lã Bố. Hai người chia nhau nắm quyền ở Tràng An, vua Hán Hiến Đế vẫn bị khống chế như trước.

Năm 194, trong khi các chư hầu ở Sơn Đông giao tranh kịch liệt thì Lý Thôi và Quách Dĩ cũng phát sinh mâu thuẫn đánh nhau ở Tràng An. Chiến sự kéo dài sang năm 195, nhân dân bỏ kinh thành chạy, lực lượng cả hai đều bị yếu đi. Hán Hiến Đế trốn khỏi chỗ Lý và Quách cùng các cận thần chạy về phía đông. Từ đầu năm 196 đến tháng 7 năm đó, sau hành trình dài, Hiến Đế được đưa trở về Lạc Dương từng bị Đổng Trác đốt phá, ở vào hoàn cảnh rất thiếu thốn và có nguy cơ bị các chư hầu tranh đoạt.

Trong khi Hán Hiến Đế đi từ Tràng An sang Lạc Dương thì Tào Tháo lại mang quân tấn công quân Khăn Vàng ở Dự châu, đánh bại quân địch và làm chủ thêm Dự châu. Thấy ông có thực lực lớn mạnh, một vị Vệ tướng quân dưới quyền Hiến Đế ngầm sai người đến Duyện châu gọi Tào Tháo đến Lạc Dương bảo giá.

Tào Tháo lập tức sai người nghênh đón vua Hiến Đế. Vì Lạc Dương đã đổ nát, ông bèn đưa Hiến Đế đến Hứa Xương, sai xây dựng lại nơi này cho vua ở. Đây là một bước chuyển rất quan trọng trong sự nghiệp của Tào Tháo vì nhà Hán tuy suy nhưng trong lòng mọi người vẫn tôn trọng, việc Tào Tháo nắm được thiên tử sẽ có cớ nhân danh vua ban ra chính lệnh để sai khiến chư hầu.

Hán Hiến Đế đến Hứa Xương, phong Tào Tháo làm Vũ Bình hầu, giữ chức Tư không kiêm Hành Xa kỵ tướng quân. Hiến Đế vốn muốn phong cho ông chức cao hơn là Đại tướng quân nhưng vì Tào Tháo còn e ngại thế lực của Viên Thiệu, muốn tránh xung đột ngay với Thiệu, vì vậy ông đề nghị Hiến Đế phong chức Đại tướng quân cho Thiệu. Mưu sĩ của ông là Tuân Úc được phong làm Thị trung kiêm Thượng thư lệnh, trông nom về văn thư. Phủ Tư không của Tào Tháo từ đó trở thành nơi thực sự ban ra mọi sắc lệnh của triều đình nhà Hán.

Phát triển nông nghiệp

Chiến tranh liên miên nhiều năm khiến nông nghiệp bị đình đốn, ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp lương thực cho quân đội trong các cuộc giao tranh giữa các chư hầu. Trong hoàn cảnh kinh tế bị tàn phá, Tào Tháo đã nhận thức được tầm quan trọng của việc khôi phục nông nghiệp. Ngay từ khi làm chủ Duyện châu, Tào Tháo đã rất tán thành ý kiến của Mao Giới và Hàn Hạo về vấn đề này, bắt đầu mang ra thảo luận trong nội bộ.

Tư Mã Lãng đề nghị khôi phục chế độ "tỉnh điền" thời Tây Chu, Tào Tháo không tán thành vì cho đó là phục cổ, thụt lùi. Cức Đê đề xuất với Tào Tháo nên tổ chức đồn điền; sau khi thảo luận kỹ ông quyết định cho thi hành. Phương pháp của Cức Đê là chiêu mộ những nhóm nông dân đang lang thang về tập trung lại, xây dựng đồn điền. Họ sẽ được cấp nông cụ, trâu bò, hạt giống để tự canh tác rồi dựa vào số thu hoạch để thu tô của họ. Nhờ áp dụng chính sách này, vùng Duyện châu mà ông cai quản có lương thực đủ dùng. Năm 194, khi đại quân Tào Tháo từ Từ châu trở về đánh Lã Bố, hoàn toàn nhờ vào thành Đông A do Cức Đê trấn thủ cấp quân lương.

Sau khi đưa Hán Hiến Đế về Hứa Đô, Tào Tháo tiếp tục thực hiện chính sách này. Ông nhân danh Hiến Đế công bố "Lệnh đồn điền", trong đó nhấn mạnh:

"Đối với thuật giữ vững quốc gia thì trước tiên phải làm cho quân đội mạnh lên và lương thực đủ ăn. Xưa nước Tần nghiêm khắc thực hiện vừa canh tác vừa tác chiến nên mới có thể thôn tính cả thiên hạ; sau Hán Vũ đế cũng dựa vào chính sách đồn điền để bình định Tây Vực. Đó là biện pháp hay mà đời trước đã làm".

Ông áp dụng chính sách đồn điền trong toàn bộ vùng ông cai quản, cử Nhâm Tuấn làm Điển Nông trung lang tướng chủ quản việc chấn hưng nông nghiệp, Cức Đê làm Đồn điền đô uý, chủ quản việc xây dựng đồn điền ở Hứa Xương. Từ đó đồn điền trở thành "quốc sách" với tập đoàn họ Tào.

Chế độ đồn điền mà ông áp dụng có 2 loại: đồn điền quân sự và đồn điền dân sự

1. Đồn điền dân sự là hình thức chủ yếu, như mô hình đề xướng của Cức Đê: huy động nông dân mất ruộng, tù binh chiến tranh qua các cuộc xung đột; cứ 50 hộ ghép thành 1 Đồn, do Đồn điền Tư mã quản lý. Các hộ nông dân trong đồn điền gọi là Đồn điền khách, canh tác từ 30-50 mẫu ruộng, nếu dùng trâu bò của triều đình thì phải nộp 6/10, nếu dùng trâu bò của mình thì nộp 5/10. Ban đầu, việc lao động trong đồn điền bị cưỡng bách và địa vị của các Đồn điền khách rất thấp kém nên nhiều người bỏ trốn. Tào Tháo theo kiến nghị của Viên Hoán, bỏ lệnh chiêu mộ Đồn điền khách bằng cưỡng chế.
2. Đồn điền quân sự ra đời muộn hơn, được Tào Tháo cho áp dụng theo kiến nghị của Tư Mã Ý: Cứ cách 5 dặm có 1 đội 60 người vừa làm ruộng vừa canh phòng khu vực của mình. Người quản lý là các tướng trong quân đội.

Thực thi chính sách đồn điền đã những thành quả quan trọng. Hàng năm, khu vực Cức Đê quản lý cung cấp hàng triệu hộc quân lương. Đời sống của nông dân được giải quyết, góp phần ổn định khu vực mà ông cai quản để lo việc chinh phạt những khu vực khác.

VII> Bá chiếm trung nguyên

Địa bàn của Tào Tháo khi đó là đất tứ chiếng nằm giữa trung nguyên, tiếp giáp với các chư hầu: phía bắc có Viên Thiệu ở Ký châu, phía tây có Hàn Toại và Mã Đằng ở Lương châu, phía nam có Trương Tú ở Nam Dương, phía đông nam có Viên Thuật ở Hoài Nam, phía đông có Lã Bố và Lưu Bị ở Từ châu.

Để làm chủ trung nguyên, Tào Tháo tính từng bước thôn tính các chư hầu. Ông tránh xung đột với Viên Thiệu là lực lượng mạnh nhất ở Hà Bắc, chủ trương diệt các lực lượng yếu trước. Ông chú tâm dẹp Trương Tú là lực lượng ở gần Hứa Xương, có khả năng uy hiếp ông; kế đó tính đến các chư hầu phương đông và đông nam. Đối với Mã Đằng và Hàn Toại ở xa, ông sai mưu sĩ Chung Do đến Tây Lương thuyết phục hai người trung thành với triều đình nhà Hán. Nhờ vậy ông có thể rảnh tay thực hiện các tính toán của mình.

Dẹp Trương Tú

Đầu năm 197, Tào Tháo đích thân mang quân tấn công Nam Dương. Trương Tú liệu thế không chống nổi nên đầu hàng. Tào Tháo vui mừng triệu tập các tướng của Tú đến uống rượu. Trong tiệc, Tào Tháo đi mời rượu, mãnh tướng Điển Vi đi cầm rìu lớn đằng sau, uy hiếp mọi người, vì vậy không ai dám ngẩng mặt nhìn ông.

Được hơn 10 ngày, Trương Tú bất mãn với Tào Tháo bèn bất ngờ dấy binh làm phản, tập kích doanh trại Tào. Sự việc quá đột ngột, ông không kịp trở tay. Quân Trương Tú sấn đến trại, lúc đó Điển Vi khỏe mạnh một mình trấn giữ, giết rất nhiều quân của Tú. Nhờ Điển Vi chẹn cửa trước nên Tào Tháo dẫn khinh kỵ bỏ chạy thoát bằng cửa sau. Điển Vi cuối cùng bị quân Trương Tú giết chết, con cả Tào Tháo là Tào Ngang cùng cháu là Tào An Dân cũng bị chết trong loạn quân.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Trương Tú trở mặt đánh Tào Tháo vì ông đã ăn nằm với bà thím goá họ Châu của Tú.

Tào Tháo thu quân về Hứa Xương. Rất may trong thời gian đó Viên Thuật đang tranh giành với Lã Bố ở phía đông nên không gây khó khăn gì cho ông.

Sau đó Tào Tháo lại mang quân đánh Trương Tú. Sau 2 lần giao chiến, Tú không địch nổi, bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu. Tào Tháo bèn lấy danh nghĩa Hán Hiến Đế phong cho Tôn Sách ở Giang Đông - địa bàn liền kề với Lưu Biểu - làm Ngô hầu, Thảo nghịch tướng quân, gợi ý Tôn Sách kiềm chế Lưu Biểu, không cho Biểu dốc toàn lực chi viện cho Trương Tú.

Sau vài năm, khi Tào Tháo tập trung lên chiến trường phía bắc với Viên Thiệu thì Trương Tú thế yếu, nhận ra việc Lưu Biểu dung nạp mình chỉ để làm vùng đệm với Tào Tháo; do đó sau khi phân tích lợi hại, Tú trở lại đầu hàng Tào. Tào Tháo chấp nhận cho Tú hàng, không kể lại thù cũ.

Thu Lưu Bị, bắt Lã Bố

Năm 195, Lã Bố bị Tào Tháo đánh thua chạy sang Từ châu nương nhờ Lưu Bị. Được một thời gian, Lã Bố cướp thủ phủ Từ châu là Hạ Bì của Lưu Bị, Bị thế yếu phải ra đóng ở Tiểu Bái, hai bên tạm hòa hoãn với nhau.

Năm 196 khi Tào Tháo nắm được Hiến Đế, Lã Bố đã sai sứ đến lấy lòng ông và xin làm Thứ sử Từ châu nhưng ông không đồng ý.

Năm 197, Viên Thuật xưng đế ở Thọ Xuân, ngang nhiên chống lại nhà Hán. Lã Bố muốn kết thông gia, giao con gái cho sứ của Thuật là Hàn Dận mang về Thọ Xuân. Nhưng nửa chừng thì Lã Bố đổi ý, đuổi theo cướp con lại rồi bắt Hàn Dận mang đến Hứa Xương nộp Tào Tháo. Ông bèn sai chém Hàn Dận và nhân danh Hán Hiến Đế phong Lã Bố làm Tả tướng quân.

Tào Tháo muốn đánh Viên Thuật trước, nên sai người đến giao hảo với Tôn Sách, đề nghị không chi viện cho Thuật. Sách vừa ly khai khỏi Thuật nên đồng lòng với Tào Tháo. Ông mang quân đánh Thọ Xuân, đánh cho Thuật thua to, giết chết tướng của Thuật là Kiều Dị.

Trong lúc Tào Tháo định đánh tiếp thì ở Từ châu lại có biến. Năm 198, Lã Bố muốn bá chiếm cả Từ châu, từ Hạ Bì sai bộ tướng Cao Thuận mang quân đánh Lưu Bị ở Tiểu Bái. Lưu Bị cầu cứu Tào Tháo. Ông sai Hạ Hầu Đôn đến cứu nhưng hai đạo quân không địch nổi Cao Thuận. Lưu Bị chạy về Hứa Xương nương nhờ ông.

Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Tháng 10 năm đó quân Tào đến Bành Thành, giết chết tướng giữ thành là Hầu Giai và lại tàn sát dân Bành Thành. Sau đó Tào Tháo tiến đến Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Bố là Thành Quảng, Bố thua trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.

Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Du và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Viên Thuật không mang quân lại cứu.

Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo. Thủ hạ của Trương Dương là Khuê Cố giết Xú báo thù cho chủ. Tào Tháo bèn sai Sử Hoán mang quân đón đánh, giết Khuê Cố và thu hết thủ hạ của Trương Dương.

Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Ông cùng Lưu Bị thúc quân vào. Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, phải bó tay chịu trói.

Lã Bố muốn hàng nhưng Tào Tháo theo lời khuyên của Lưu Bị, sai mang Lã Bố giết chết. Sau đó ông giết cả Cao Thuận và Trần Cung. Trong các thủ hạ của Lã Bố, ông thu dụng Trương Liêu và Tang Bá.

Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Ngụy Tục và Tống Hiến đồng mưu với Hầu Thành trói Lã Bố lại rồi mở cửa cho quân Tào vào.

Diệt Viên Thuật, đuổi Lưu Bị

Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Ông không trả lại Từ châu vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm giao cho mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ. Ông giữ Lưu Bị ở lại Hứa Xương để kiềm chế, phong làm Tả tướng quân (thay chức của Lã Bố).

Việc Tào Tháo nắm trọn quyền hành khiến quốc cữu Đổng Thừa bất mãn, có ý định trừ khử Tào Tháo. Năm 199, Đổng Thừa ngầm liên kết với Lưu Bị để hại ông. Khi chưa có cơ hội cho Đổng Thừa hành động thì Viên Thuật sức cùng lực kiệt đã bỏ Hoài Nam định lên Hà Bắc nhường ngôi cho Viên Thiệu. Tào Tháo phái Lưu Bị mang 1000 quân đi chặn đánh. Thuật bị thua trận phải quay trở lại và kiệt sức ốm chết.

Mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa ở Hứa Xương bị bại lộ, Thừa bị Tào Tháo giết cả họ. Tào Tháo tra ra việc Lưu Bị đồng mưu với Thừa. Cùng lúc, Lưu Bị đuổi được Thuật bèn chính thức ly khai khỏi Tào Tháo, mang quân chiếm lại Từ châu, giết chết Xa Trụ.

Tào Tháo nổi giận chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu. Tào Tháo cũng sắp quân ở Quan Độ để chờ quân Hà Bắc. Tuy nhiên, sau một thời gian không thấy Viên Thiệu cử động, Tào Tháo quyết định đánh Lưu Bị trước. Có người khuyên ông nên cảnh giác kẻo bị hai bên địch đánh kẹp, nhưng ông quả quyết rằng Viên Thiệu trù trừ không quyết đoán sẽ không ra quân gấp để cứu Lưu Bị.

Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy phải đầu hàng Tào Tháo.

Tào Tháo chiếm lại Từ châu. Sau khi dẹp được 4 chư hầu Trương Tú, Lã Bố, Viên Thuật, Lưu Bị, ông đã làm chủ địa bàn rộng lớn ở trung nguyên, chính thức ở thế đối mặt với Viên Thiệu hùng mạnh ở Hà Bắc. Khi ông đánh đuổi được Lưu Bị thì Viên Thiệu vẫn chưa chính thức phát binh.

Đánh bại cha con Viên Thiệu

Trận Bạch Mã, Diên Tân

Trong khi Tào Tháo đánh dẹp các chư hầu phía nam và phía đông thì Viên Thiệu cũng tập trung tiêu diệt Công Tôn Toản ở Bình Nguyên, thôn tính U châu, Thanh châu và Tinh châu. Làm chủ địa bàn rộng lớn, có nhiều quân sĩ và hào kiệt, Viên Thiệu trở thành thế lực mạnh mẽ ở phía bắc mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Xương.

Năm 200, Lưu Bị thua trận đến chỗ Thiệu xin hàng. Thiệu bèn phát binh giao tranh với Tào Tháo. Viên Thiệu mang theo Lưu Bị đi đánh Tào Tháo, đóng đại quân ở Lê Dương, sai Trần Lâm thảo hịch kể tội ông. Bài hịch vừa điển nhã vừa hùng kiện, được coi là bài văn nổi tiếng trong văn học cổ điển[38].

Sau đó Viên Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Trương Liêu và Quan Vũ đi cứu Bạch Mã và cũng chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã, sai Quan Vũ ra trận giết chết mãnh tướng của Thiệu là Nhan Lương, giải vây thành Bạch Mã.

Tháng 5 năm 200, ông cùng Quan Vũ và Trương Liêu đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận nữa tại đây, giết chết Văn Xú. Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó ông lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân.

Trận Quan Độ

Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tìm cách xây dựng lại lực lượng. Quan Vũ ở bên Tào sau khi lập công trả ơn ông cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị và sau hai người tái ngộ với Trương Phi ở Nhữ Nam.

Sau vài tháng ngưng nghỉ điều quân, hai bên tái chiến trong trận thư hùng ở Quan Độ ngay từ tháng 8 năm đó, kéo dài hơn 100 ngày.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng sau trận Diên Tân, hai bên lại thu binh về chỗ. Tào Tháo rút về Hứa Xương, Viên Thiệu trở về Ký châu; La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo, ông còn đi ra tiễn Vũ ở Hứa Xương. Viên Thiệu còn sai Trần Chấn đến Giang Đông lôi kéo Tôn Sách liên minh đánh Tào Tháo nhưng Tôn Sách đột ngột qua đời, Tôn Quyền lên thay theo chính sách của Trương Chiêu, Gia Cát Cẩn, theo Tào mà không theo Viên. Viên Thiệu thấy sứ giả trở về không cầu được họ Tôn bèn tự mình khởi bình lần thứ hai đi đánh. Diễn biến trong tiểu thuyết khá nhiều sự kiện và thư thả nhưng trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường, tiếp tục điều động binh lực.

Bị thua và mất hai tướng, Viên Thiệu điều đại quân đến Dương Vũ, phía tây bắc Trung Mâu, men theo đồi cát dọc bờ sông, dựng vài chục doanh trại kéo dài từ đông qua tây, định triển khai hai cánh bao vây quân Tào rồi tiêu diệt.

Tào Tháo không lui binh, cũng chia quân làm nhiều nhóm chống cự, nhưng vì ít quân hơn nhiều nên không đủ phân ra các vị trí có địch.

Viên Thiệu mang quân ra khỏi luỹ, giao chiến với quân Tào. Quân Tào thua trận phải lùi lại mấy lần. Tào Tháo ra lệnh tướng sĩ cố giữ vững trận địa, quân địch khiêu chiến nhiều lần nhưng không ra đánh.

Viên Thiệu bèn bày trận trên dãy núi đất, dựng nhiều chòi gỗ, đứng trên đó bắn xuống doanh trại quân Tào. Quân Tào mỗi người phải dùng thuẫn gỗ che đỡ tên bắn. Sau đó Tào Tháo dùng xe bắn đá bắn sang, phá nát các chòi gỗ của địch.

Viên Thiệu lại cho quân đào nhiều địa đạo vào doanh trại quân Tào. Ông phát hiện bèn sai quân đào đường hầm theo chiều ngang nằm phục sẵn, hễ quân Viên đến thì bắn chết.

Hai bên giữ nhau lâu ngày, Tào Tháo sắp hết lương, muốn rút lui, bèn hỏi ý kiến Tuân Úc đang trấn thủ Hứa Xương. Tuân Úc viết thư trả lời, khuyên ông kiên trì giữ, nhất định không được rút lui, nếu không hậu quả sẽ rất xấu. Tào Tháo nghe theo, lệnh cho các tướng sĩ cố sức giữ thế trận.

Đánh lâu ngày không hạ được, Viên Thiệu chưa nghĩ ra kế nào khác. Thiệu sai Thuần Vu Quỳnh mang 1 vạn quân đi về nhận lương để chở ra mặt trận. Đúng lúc đó một thủ hạ của Thiệu là Hứa Du có người nhà bị tội vào ngục, xin Viên Thiệu tha không được nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo.

Được tin báo của Hứa Du về việc Thuần Vu Quỳnh, Tào Tháo đích thân mang 5000 quân mã đuổi đến kho lương của Viên Thiệu ở Ô Sào. Đang đêm, quân Tào bất ngờ tập kích, Nhạc Tiến chém chết Quỳnh. Tào Tháo đốt sạch kho lương của Viên Thiệu. Trong hơn 1 vạn quân của Quỳnh thì hơn 1000 bị giết, số còn lại đầu hàng. Tào Tháo sai cắt hết mũi xác chết, lưỡi của bò ngựa giao cho quân đầu hàng mang về doanh trại Viên Thiệu để uy hiếp tinh thần, làm nhụt ý chí quân địch.

Viên Thiệu thấy lửa cháy từ xa, biết tin Ô Sào bị đánh, một mặt điều quân cứu Quỳnh, mặt khác sai Trương Cáp, Cao Lãm đi cướp doanh trại Tào. Nhưng Tào Tháo đã bố trí quân phòng bị trước, đúng như dự liệu của Cáp và Lãm. Cáp và Lãm không hạ được trại Tào, lại nghe tin Tào Tháo phá tan Ô Sào trở về, bèn quyết định đầu hàng ông.

Viên Thiệu liên tiếp nghe tin thua trận, kho lương bị mất, tướng sĩ náo loạn, kéo nhau bỏ chạy. Tào Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến quân Thiệu đại bại tan nát. Thiệu hốt hoảng, cùng con là Viên Đàm dẫn 800 quân kỵ chạy một mạch, qua sông Hoàng Hà mới dám dừng lại nghỉ.

Hơn 7 vạn quân của Viên Thiệu không theo kịp chủ, đều xin hàng Tào Tháo. Trong số đó có một vài người không hoàn toàn quy thuận, có biểu hiện trá hàng. Tào Tháo sợ phát sinh hậu hoạ bèn ra lệnh chôn sống cả 7 vạn hàng binh.

Những diễn biến chính của trận Quan Độ như dựng chòi, đào địa đạo, cướp lương Ô Sào... được Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả khá sát với sử sách.

Trừ anh em họ Viên

Sau một thời gian ngơi nghỉ, Tào Tháo mang quân truy kích Viên Thiệu. Tháng 4 năm 201, hai bên gặp nhau ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận lớn nữa. Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp, mắc bệnh nằm một chỗ.

Trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo kịp mang quân về Hứa Xương (tháng 6 năm 201) rồi điều quân tấn công Lưu Bị đang liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Ban đầu ông sai Sái Dương đi đánh nhưng Dương bị Lưu Bị giết chết. Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ nhưng thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam.

Tạm yên mặt nam, Tào Tháo quay trở lại đánh Hà Bắc. Tháng 5 năm 202, Viên Thiệu ốm không khỏi, qua đời. Khi quân Tào sáp đánh, các con Viên Thiệu là Viên Đàm (con cả) và Viên Thượng (con thứ 3) chia nhau chống giữ. Tào Tháo đánh Viên Đàm ở Lê Dương từ tháng 2 đến tháng 9 năm 203 không hạ được.

Nắm được nội tình anh em họ Viên đang tranh giành quyền thừa kế, Tào Tháo bèn rút đại binh để Đàm và Thượng đánh nhau, tự suy yếu lực lượng. Quả nhiên hai anh em mang quân đánh nhau, Viên Đàm bị thua chạy lên Bình Nguyên. Tào Tháo bèn mang đại quân trở lại, để chia rẽ họ Viên, ông lấy danh nghĩa cứu Viên Đàm. Viên Thượng hoảng sợ bỏ đánh Bình Nguyên rút về Nghiệp Thành, hai tướng của Thượng là Lã Khoáng, Lã Tường đầu hàng ông. Sau khi hứa kết thông gia với Viên Đàm, ông lại rút về nam cho anh em họ Viên đánh nhau. Nội tộc họ Viên lại tái chiến.

Đầu năm 204, Tào Tháo mang quân đánh Nghiệp Thành. Lúc đó Thượng lên Bình Nguyên đánh Đàm chưa về, thành do Thẩm Phối giữ. Quân Tào tấn công không nổi. Tháng 5 năm đó, Tào Tháo sai đào một hào lớn, dẫn nước sông Chương Hà vào thành. Nghiệp Thành bị nước bao vây cô lập, đến tháng 8 thì dân trong thành chết đói quá nửa.

Viên Thượng nghe tin vội về cứu, Tào Tháo điều quân chặn đánh. Quân của Thượng tan vỡ, các tướng dưới quyền chạy sang hàng Tào. Thượng bỏ chạy về Trung Sơn. Thẩm Phối vẫn kiên cường phòng thủ, sai người mang nỏ cứng ra ngoài thành, phục ở chỗ Tào Tháo hay đi tuần qua, có lần ông suýt bị nỏ bắn trúng. Nhưng sau đó cháu Phối là Thẩm Vinh phản họ Viên, mở cửa thành cho quân Tào. Tào Tháo hạ được thành, dụ hàng Thẩm Phối không được bèn sai mang chém để bảo toàn danh tiết cho Thẩm Phối.

Trong khi đó họ Viên vẫn đánh lẫn nhau. Viên Đàm đến Trung Sơn đánh Thượng, chiếm luôn Ký châu. Thượng bỏ chạy tới U châu theo anh hai là Viên Hy.

Tào Tháo gửi thư tuyên bố cắt đứt thông gia với Viên Đàm, trả lại con gái Đàm và tiến đánh Bình Nguyên. Đàm bỏ chạy về Nam An. Tháng 1 năm 205, Tào Tháo tiến đánh Nam An. Đàm bị thủ hạ giết chết để hàng Tào.

Anh em Viên Hy, Viên Thượng ở U châu không lâu thì thủ hạ của Hy là Tiêu Xúc, Trương Nam làm phản, hai anh em phải bỏ chạy sang Liêu Tây, nương nhờ thủ lĩnh Ô Hoàn là Đạp Đốn. Tháng 10 năm 205, Tào Tháo mang đại quân tấn công Liêu Tây, đánh đuổi bộ lạc Ô Hoàn ở 3 bộ Liêu Tây, Liêu Đông và Hữu Bắc Bình ra khỏi Trường Thành. Anh em Hy và Thượng cùng Đạp Đốn chạy sang Liêu Đông với Công Tôn Khang.

Cháu Viên Thiệu là Cao Cán trấn thủ Tinh châu, trước nghe tin họ Viên bại trận bèn đầu hàng Tào Tháo. Thấy ông đi đánh Ô Hoàn, Cán lại làm phản. Tháng 1 năm 206, ông dẫn quân trở về đánh Cán. Cán thua chạy đi cầu cứu Hung Nô không được, trở về đến Thượng Lạc thì bị giết.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Cao Cán là con rể của Viên Thiệu.

Đầu năm 207, anh em họ Viên đến Liêu Đông. Tào Tháo đi chiêu hàng đến Liễu Thành (Liêu Tây), không mang quân truy đuổi anh em họ Viên đến Liêu Đông. Ông đoán biết nếu tiến đánh, Công Tôn Khang sẽ liên hợp với họ Viên, vì vậy ông chủ ý lui quân về phía nam, tỏ ý không truy bức, Khang sẽ thanh trừng họ Viên.

Tào Tháo không chờ động tĩnh từ phía Khang mà chủ động rút lui khỏi Liễu Thành về nam trong hoàn cảnh rất gian khổ. Khi đó ở phía bắc rất lạnh, quân đội của ông bị rét cóng; toàn quân đi 200 dặm không có nước; sau đó phải đào giếng sâu tới 39 trượng mới có nước. Lương thực hết, quân Tào phải giết ngựa chiến để ăn. Quân Tào ăn hết vài ngàn con ngựa mới về tới khu vực có lúa của người Hán. Các nhà sử học Trung Quốc nêu giả thiết, nếu anh em họ Viên biết được tình cảnh thê thảm đó của quân Tào mà dẫn tàn quân truy kích thì chưa biết tình hình sẽ ra sao.

Đúng như dự liệu của Tào Tháo, Công Tôn Khang lập tức bắt chém anh em Hy và Thượng và Đạp Đốn ngay lúc đến ra mắt, sai người mang 3 thủ cấp nộp Tào Tháo - khi đó ông đã về đến Nghiệp Thành. Ông phong chức Tương Bình hầu cho Khang để thưởng công.

VIII> Nam tiến

Sau khi diệt họ Viên, Tào Tháo hoàn toàn làm chủ trung nguyên, trở thành lực lượng mạnh nhất Trung Quốc khi đó. Ông tiến hành cải cách triều đình Đông Hán, khôi phục lại chức Thừa tướng và tự mình đảm nhiệm, đưa hàng loạt người thân tín nắm những chức vụ quan trọng trong triều đình cũng như những nơi hiểm yếu.

Các lực lượng chư hầu có địa phận liền kề với ông khi ông mới về Hứa Xương đều đã bị dẹp. Khi đó trong toàn quốc còn lại Lưu Biểu và Lưu Bị ở Kinh châu, Tôn Quyền ở Giang Đông, Trương Lỗ ở Đông Xuyên, Lưu Chương ở Tây Xuyên, Hàn Toại và Mã Đằng ở Tây Lương. Tào Tháo quyết định nam tiến diệt Lưu Biểu và Tôn Quyền là những lực lượng đáng kể nhất trong số các chư hầu còn lại.

Lấy Kinh châu

Lưu Bị từ khi thua Tào Tháo ở Nhữ Nam chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu, được sai trấn giữ ở Tân Dã.

Tháng 7 năm 208, Tào Tháo khởi binh nam tiến, đánh Kinh châu. Tháng 8 năm đó, khi quân Tào chưa đến nơi thì Lưu Biểu đã ốm chết. Tháng 9, Tào Tháo tiến đến Tân Dã. Lưu Bị từ khi nghe tin đại quân Tào Tháo kéo đến đã bỏ Tân Dã về Phàn Thành.

Quân Tào áp sát, con nhỏ của Lưu Biểu là Lưu Tông - người được quyền thừa kế - sợ hãi đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị nghe tin Lưu Tông đầu hàng bèn mang hơn 10 vạn dân chạy đến Giang Lăng - nơi chứa lương thảo và vũ khí của Kinh châu - để thế thủ. Tào Tháo chọn 5000 quân kỵ khoẻ ngày đêm đuổi theo, một ngày đi 300 dặm. Khi quân Tào tới Đương Dương - Tràng Bản thì bị mãnh tướng Trương Phi đánh chặn, tạm thời phải dừng lại.

Vừa lúc đó sứ giả của Tôn Quyền là Lỗ Túc đến Tràng Bản, gặp được Lưu Bị. Theo lời khuyên của Lỗ Túc, Lưu Bị quyết định liên minh với Tôn Quyền để chống Tào, sai Gia Cát Lượng sang Đông Ngô; bản thân Lưu Bị hợp binh với Quan Vũ về cố thủ ở Giang Hạ với con lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ.

Tào Tháo thúc quân đuổi tiếp đến Giang Lăng nhưng không thấy Lưu Bị, bèn chiếm lấy kho lương và vũ khí ở đó. Sau đó ông tập hợp đại quân chuẩn bị tiến đánh Tôn Quyền.

Thua trận Xích Bích

Tào Tháo cùng các tướng Tào Nhân, Nhạc Tiến, Tào Thuần, Lý Thông, Mãn Sủng và tướng cũ của Lưu Biểu là Văn Sính dẫn khoảng 22 vạn quân áp sát Giang Đông. Với lực lượng hùng hậu, ông tỏ ra coi thường lực lượng nhỏ yếu của Tôn Quyền, rất tin tưởng vào thắng lợi ở trận này nên không mang theo các danh tướng khác. Ông gửi thư cho Tôn Quyền nói:

"Ta vâng mệnh hoàng đế, điếu dân phạt tội, tiến quân xuống nam, Lưu Tông con Lưu Biểu đã trói tay xin hàng; hiện đã chỉnh đốn 80 vạn quân thủy, chuẩn bị đánh nhau với ngươi ở Ngô quận".

Tôn Quyền liên kết với Lưu Bị, sai Chu Du mang 3 vạn quân ra phối hợp với Lưu Bị chống lại.

Thủy quân Tôn-Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu-Phàn Khẩu tới Xích Bích, giao tranh với tiền quân của Tào Tháo. Quân Tào đi đường xa, không hợp thủy thổ, bị bệnh dịch hành hạ nên không thể giành được lợi thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm (phía Bắc Trường Giang).

Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến (quân Tào không quen thủy chiến hay bị say sóng), Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau. Quan sát động thái này của Tào Tháo, tướng Hoàng Cái bên Đông Ngô kiến nghị Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du tán đồng. Hoàng Cái sai người gửi thư trá hàng và Tào Tháo tin theo.

Theo thời gian đã hẹn, đội "hàng binh" của Hoàng Cái đến giữa sông thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao thẳng vào hạm đội của quân Tào. Các thuyền chiến của Tào Tháo nhanh chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết đuối dưới sông. Trong lúc quân Tào đang hoảng hốt vì đám cháy thì liên quân Chu Du đã chiếm lĩnh trận địa và chia cắt lực lượng của Tào Tháo, buộc ông phải ra lệnh rút lui sau khi phá hủy một phần số thuyền chiến còn lại.

Tào Tháo cùng bại binh rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Chu Du và Lưu Bị không ngừng đuổi theo ông cho tới tận Nam Quận. Cuối cùng, thiệt hại nặng nề khiến Tào Tháo phải bỏ miền Nam rút về Nghiệp Quận, để lại Từ Hoảng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương.

IX> Củng cố thế đứng phương bắc

Bài Thủ sắc

Sau trận Xích Bích, về cơ bản thế đứng của ba họ Tào, Tôn và Lưu khá vững, lực lượng khá cân bằng nên Tào Tháo không còn thời cơ nam tiến thuận lợi để thống nhất Trung Hoa như trước nữa. Thế chân vạc hình thành.

Trong khi Tôn Quyền và Lưu Bị ra sức giành lấy những vùng đất đai phía nam thì Tào Tháo án binh bất động trong 2 năm 209 - 210. Ông đóng quân ở Nghiệp Thành, huy động người xây đài Đồng Tước để hưởng thụ lúc tuổi già. Con thứ 4 của ông là Tào Thực vì sự kiện này mới làm bài phú Đài Đồng Tước.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo đã xây đài Đồng Tước trước trận Xích Bích với mục đích sau khi bình định Giang Đông sẽ bắt hai mỹ nhân Đại Kiều và Tiểu Kiều (vợ Tôn Sách và Chu Du) về đó hưởng lạc. La Quán Trung còn khéo léo để Gia Cát Lượng sửa vài chữ trong bài phú của Tào Thực nhằm kích động Chu Du quyết tâm đánh Tào.

Để củng cố thực lực phương bắc, ông hạ lệnh chiêu mộ nhân tài; sau đó ban bố tờ "Thủ sắc" để tự trần tình. Bài Thủ sắc đại ý nói bản ý ban đầu ông chỉ hy vọng lập chút công danh, nhưng vì gặp thời loạn nên từng bước lên địa vị Thừa tướng; "nếu không có ta thì nhà Hán đã mất". Cuối bài ông nhấn mạnh việc những người nghi ngờ ông muốn cướp ngôi nhà Hán đều là nghĩ sai; ông cũng muốn rời bỏ chức vụ hiện tại cũng không thể, vì đã kết oán với nhiều người, sợ bị hãm hại.

Để cho mọi người thấy điều mình nói không phải dối trá, ông trả lại 3 huyện 2 vạn hộ được phong, chỉ giữ lại huyện Vũ Bình 1 vạn hộ.

Chinh phạt Tây Lương

Tây Lương tuy ở xa nhưng Tào Tháo luôn quan tâm đúng mức. Ngay thời Lý Thôi và Quách Dĩ cầm quyền, Hàn Toại và Mã Đằng từng mang quân đánh vào kinh thành Tràng An với danh nghĩa cứu vua Hán (194), vì vậy Tào Tháo rất cảnh giác với lực lượng này.

Trước khi ra tay đánh dẹp chư hầu ở Trung nguyên, ông từng phái Chung Dao đi ngoại giao để trấn an Đằng và Toại khiến hai người không gây hấn. Trước khi xuống miền nam đánh Kinh châu, năm 208, Tào Tháo đã nhân danh Hán Hiến Đế triệu Mã Đằng về Hứa Xương bổ nhiệm làm Thái uý, ngoài mặt là phong chức nhưng kỳ thực để chia cắt với Hàn Toại; đồng thời ông phong con Đằng là Mã Siêu làm Thiên tướng quân, Đô Đình hầu, cho thay cha quản lý quân đội dưới quyền.

Năm 211, Tào Tháo phái Tư Lệ hiệu uý Chung Dao và Chinh tây Hộ quân Hạ Hầu Uyên đi đánh Trương Lỗ ở Đông Xuyên. Các tướng ở Tây Lương thấy ông không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ rằng Tào Tháo dùng kế "mượn đường Quắc diệt Ngu"[54]. Do đó, 10 tướng lĩnh Tây Lương gồm Hàn Toại, Mã Siêu, Hầu Tuyển, Trình Ngân, Dương Thu, Mã Ngoạn, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Lý Kham cất 10 vạn quân làm phản. Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu trong số này, chiếm cứ Đồng Quan.

Tháng 7 năm 211, Tào Tháo đích thân mang quân đánh Mã Siêu. Đến Đồng Quan, ông bí mật phái Từ Hoảng và Chu Linh mang 4000 quân vượt bến Bồ Bản, đóng trại ở Hà Tây để chặn đường lui của Mã Siêu. Siêu bàn với Hàn Toại chia quân ra chặn ở bờ bắc ngăn quân Tào nhưng Toại không nghe theo. Siêu bèn tự mình hành động.

Tào Tháo cho đại quân vượt sông sang bờ bắc. Khi quân Tào đang qua sông thì Mã Siêu bất thần mang 1 vạn quân đến đánh úp, bắn tên đến như mưa. Người chèo thuyền của Tào Tháo bị trúng tên chết, tướng Hứa Chử một tay cầm yên ngựa che cho Tào Tháo, tay kia chèo thuyền. Cùng lúc đó Huyện lệnh Vị Nam là Đinh Phỉ sai thả hết trâu ngựa ra đường khiến quân Mã Siêu tranh nhau đi bắt, sao nhãng việc truy kích Tào Tháo. Vì vậy ông được thoát nạn, qua bờ bên kia.

Theo kế của Giả Hủ, Tào Tháo quyết định dùng kế ly gián Toại và Siêu. Ông vốn quen biết với Toại từ trước, khi ra trận gặp Toại không có mặt Siêu, ông tìm cách bắt chuyện, nói với nhau khá thân mật. Vì vậy Siêu bắt đầu nghi ngờ Toại.

Sau đó Tào Tháo lại viết thư gửi Hàn Toại, cố ý gửi nhầm bản nháp, có gạch xoá sửa chữa những chỗ quan trọng. Siêu thấy Toại có thư, đến đòi xem. Thấy thư bị gạch xoá, Siêu càng nghi ngờ là do Toại tự gạch đi.

Biết nội bộ quân Tây Lương đã nghi ngờ nhau, Tào Tháo ra quân tiến đánh. Ông dùng khinh binh nhử trước cho địch đuổi theo rồi mới dùng quân tinh nhuệ giáp công. Quân Tây Lương dao động, bị đánh đại bại. Hàn Toại bỏ chạy về Kim Thành; Mã Siêu thua chạy sang bộ lạc của người Nhung. Tào Tháo dẫn quân truy kích Siêu đến tận Yên Định nhưng chưa bắt được Siêu thì có tin Tôn Quyền mang quân đánh trung nguyên nên ông rút đại quân về phía Đông, để Hạ Hầu Uyên ở lại trấn giữ.

Năm 212, Tào Tháo về đến Hứa Xương, nhân danh Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành.

Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng do Tào Tháo dụ Mã Đằng về kinh giết chết nên Mã Siêu mới khởi binh báo thù. Việc ông xoá thư ly gián Siêu và Toại được kể tương tự trong sử sách.

Về sau, Mã Siêu tập hợp người Khương, người Hồ quay trở lại tấn công các quận huyện Lũng Thượng, giết Thứ sử Lương châu là Vi Khang. Thủ hạ của Khang là Dương Phụ khởi binh báo thù cho chủ, hợp binh với Hạ Hầu Uyên đánh bại Mã Siêu. Siêu phải chạy sang đầu hàng Trương Lỗ ở Hán Trung. Vùng Tây Lương cơ bản thuộc quyền kiểm soát của Tào Tháo.

Đánh chiếm Đông Xuyên

Sau trận giao tranh với Tôn Quyền bất phân thắng bại năm 213, Tào Tháo nhận thấy thế chân vạc đã vững, chưa thôn tính Giang Đông hiểm yếu được. Sang năm 214, Lưu Bị từ Kinh châu tiến vào đánh chiếm Tây Xuyên của Lưu Chương khiến ông phải gấp rút hành động. Ông dự định đánh chiếm Hán Trung (Đông Xuyên) của Trương Lỗ, sau đó xuôi theo sông Hán Thuỷ xuống phía nam đánh Ích châu để trừ Lưu Bị.

Tháng 3 năm 215, Tào Tháo xuất phát qua Trần Thương, không tiến ngay về phía nam mà trước hết ra khỏi Tản Quan phía tây trừ nốt Hàn Toại đang liên minh với vua người tộc Chi (Đê) là Đậu Mậu. Tháng 5, quân Tào đánh tan Đậu Mậu ở Hạ Trì, Hàn Toại bỏ chạy từ Kim Thành tới Tây Bình[58] thì bị thủ hạ giết chết, mang đầu nộp cho Tào Tháo.

Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Hàn Toại bị Mã Siêu nghi ngờ thông đồng với Tào Tháo, chém đứt một cánh tay, thành người tàn phế. Khi Tào Tháo đánh bại Siêu năm 211, Hàn Toại đầu hàng.

Trừ xong Hàn Toại, Tào Tháo mới quay trở lại đánh Hán Trung. Thấy quân Tào thế mạnh, Trương Lỗ muốn hàng nhưng em là Trương Vệ phản đối. Lỗ cho Vệ mang vài vạn quân ra địch.

Trương Vệ ra trấn giữ ải Dương Bình, Tào Tháo đánh 3 ngày không hạ được. Nhưng sau đó bất ngờ quân Tào chiếm được cửa ải. Sử sách chép về sự kiện này không giống nhau.

Tam Quốc Chí chép rằng Tào Tháo cho quân tập kích ban đêm và chiếm được ải. Ngụy Tấn thế ngữ chép rằng: Tào Tháo nản chí muốn lui binh, Quách Kham khuyên nên kiên trì; đúng đêm hôm đó có chuyện phát sinh bất ngờ: hàng ngàn con hươu tràn vào trại quân Trương Vệ nên quân Vệ náo loạn; cùng lúc đó tiền quân của Tào Tháo lại đi lạc đường, tiến vào trại của Vệ. Viên trung hộ quân của Tào Tháo là Cao Tộ sợ quân chạy rải rác trong trại địch sẽ bị tiêu diệt, vội gióng trống thổi tù và làm hiệu; không ngờ điều đó khiến Trương Vệ sợ hãi, tưởng quân Tào đã vào đông nên hốt hoảng bỏ chạy, sau bị quân Tào bắt giết.

Nghe tin Trương Vệ thua trận, Trương Lỗ muốn hàng nhưng lại nghe theo thủ hạ Diêm Phố khuyên, chưa hàng ngay mà chạy ra núi Đại Ba, dựa vào các thủ lĩnh bộ tộc cố thủ, sau đó mới sai người đến xin Tào Tháo xin giảng hoà. Trước khi đi, Trương Lỗ không nghe theo lời khuyên đốt kho tàng khiến quân Tào đói mà khoá hết kho tàng, niêm phong lại.

Tào Tháo khen ngợi việc Trương Lỗ không đốt kho tàng, chấp nhận cho Trương Lỗ đầu hàng, phong làm Trấn Nam tướng quân, Lãng Trung hầu; 5 con trai của Lỗ và Diêm Phố cũng được phong làm liệt hầu. Sau đó ông còn kết thông gia với Trương Lỗ, lấy con gái Lỗ cho con trai mình.

Tướng Tây Lương cũ là Mã Siêu bất mãn với Trương Lỗ đã bỏ sang Tây Xuyên theo hàng Lưu Bị từ trước, bộ tướng của Siêu là Bàng Đức ốm nằm lại Đông Xuyên nên lúc đó theo hàng Tào Tháo.

Thấy quận Hán Trung rộng lớn, ông chia làm 3: Trung tâm vẫn gọi là Hán Trung, đặt thêm 2 quận Tây Thành và Thư

McCartney

McCartney
 Double Stars

Trương Cáp

Trương Cáp 张郃 (Zhang He) (167 - 231) tự là Tuấn Nghệ (儁乂), là một võ tướng thời Hậu Hán, có công đóng góp rất lớn cho việc Tào Tháo lập nên nhà Ngụy.

Cuộc đời và sự nghiệp
Trương Cáp (hay Trương Hợp) trước là thuộc hạ của Hàn Phúc, sau đó theo Viên Thiệu, rồi Tào Tháo. Ông bắt đầu tham gia chiến trận năm mới 16 tuổi khi có khởi nghĩa Hoàng Cân.

Khi Tào Tháo đánh nhau với Viên Thiệu ở trận Quan Độ, Trương Cáp nhiều lần bày mưu và khuyên Viên Thiệu nhưng ông ta không nghe lời. Kết quả Trương Cáp và Cao Lãm chạy sang phe Tào Tháo.

Sau này ông đã trở thành danh tướng nước Ngụy, được xếp vào hàng năm danh tướng của Ngụy. Trong những chiến tích của ông thì trận giao tranh với Trương Phi ở Ba Tây được xem là nổi bật nhất, dù thất bại nhưng cuối cùng Trương Cáp cũng bày kế và giết được Lôi Đồng của Trương Phi.

Khi Tào Phi mất, Tào Duệ lên, Trương Cáp được phong làm Hữu tướng quân, người giữ quyền lực quan trọng nhất trong triều đình chỉ sau Tư Mã Ý và tham mưu Hạ Hầu Mậu. Ông được giao trọng trách cùng với Tư Mã Ý tiến đánh vùng Ba Thục.

Cuối cùng Cáp bị trúng kế của Gia Cát Lượng ở Kiếm Các và bỏ mạng. Trong Tam Quốc Chí ghi rằng Tư Mã ý khuyên Trương Cáp không nên đuổi theo quân Thục Hán nhưng ông không nghe nên bị phục kích, nhưng trong các ghi chép khác thì Trương Cáp lúc đó là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên không đuổi theo Gia Cát Lượng, nhưng Tư Mã Ý hoặc là vì thiếu hiểu biết hoặc là cố ý hại ông để tranh quyền nên ra lệnh cho ông đuổi theo. Trương Cáp được phong tước Hầu sau khi chết.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Quan Vũ

Quan Vũ (關羽, 162? - 219), cũng được gọi là Quan Công (關公), tự là Vân Trường, Trường Sinh (長生), là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.

Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy (581-618). Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố, đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân (khoảng 18 kg ngày nay). Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn

Các thời kỳ

THƠ ẤU Quan Vũ (160-219)tên tự là Vân Trường (còn có tên tự khác là Thường Sinh). Ông là người huyện Giải, quận Hà Đông. Một buổi sáng của năm Kiến Ninh thời vua Linh Đế nhà Đông Hán, lão phương trượng chùa Phổ Cứu của phủ Bồ Châu đang ngồi trong thiền phòng của mình thì có có một bé trai gương mặt hồng hào, cặp mắt to chạy đến xin lão phương trượng được ở lại chùa. Lão phương trượng rất thích chú bé nhanh nhẹn hoạt bát này nhưng chỉ hiềm nỗi nhà chùa không đủ sức nuôi chú. Nhìn em bé có tướng mạo phi phàm lão phương trượng dự đoán tương lai của chú bé không phải tầm thường. Ông bèn đem chú bé gửi gắm cho đôi vợ chồng thợ đá họ Thường vẫn đến làm các công việc về đá trong chùa và dặn dò họ nhớ phải nuôi nấng chú bé thành người.

Vợ chồng người thợ đá họ Thường năm ấy tuổi đã trung niên mà không có con, vì vậy họ rất thương yêu và nuôi dưỡng chú bé cẩn thận. Lại sợ nếu để xảy ra điều gì thì phụ lòng phương trượng nên họ đặt tên cho em là Thường Sinh, với mong muốn mọi sự tốt lành cho đứa bé. Vài năm sau, khi Thường Sinh đến tuổi đi học võ, vợ chồng họ Thường đem hết vốn liếng tích luỹ được để gửi em đến trường tư. Thường Sinh vốn thông minh, ham học, thường chông đèn học đến khuya. Không bao lâu sau, Thường Sinh học thuộc lòng cả bộ sách "Lã thị Xuân Thu".

Khi lớn lên, Thường Sinh không những có tướng mạo phi phàm, uy phong lẫm liệt mà còn có sức khoẻ hơn người. Ngoài thời gian học tập, cậu thường xuyên luyện tập võ nghệ, bài binh bố trận, trẻ con trong làng thường đi theo cậu chơi bời luyện tập. Khi nghe tin vợ chưa cưới của bạn mình Lý Sinh bị con trai của thái thú Bồ Châu là Hùng Dương cướp mất, Thường Sinh nổi giận, cùng bạn đến công phủ kiện Hùng Dương. Hùng Dương cậy thế bố là thái thú Hùng Hổ nên khinh người vu vạ lại cho bọn Thường Sinh. Trong cơn tức giận Thường Sinh ra tay đánh chết Hùng Dương. Sau khi đánh chết Hùng Dương, Thường Sinh không dám lưu lại quê nhà phải tìm đường chạy trốn. Chạy chưa được bao xa thì thái thú Hùng Hổ đem quân đuổi kịp định bắt giữ Thường Sinh. Không kịp suy tính trước sau Thường Sinh giết sạch cả thái thú lẫn quân lính.

Vụ việc đó chấn động cả quan quân, Thường Sinh bị truy nã gắt gao. Một lần trong cơn nguy khốn, Thường Sinh gặp một bà lão đang giặt đồ bên sông bèn xin giúp đỡ. Chưa kịp dứt lời thấy hình mình phản chiếu trên mặt nước, cậu vô cùng ngạc nhiên khi mặt mình đỏ hơn trước nhiều, hai bên mép và dưới cằm mọc ra 5 chòm râu dài. Quay lại không thấy bà lão giặt đồ đâu nữa. Thường Sinh không cần suy nghĩ gì thêm nửa, cứ nhằm cổng thành Bồ Châu mà đi thẳng. Một tên lính gác ngăn Thường Sinh lại, hỏi họ tên. Lúc ấy đúng vào cuối mùa xuân, bầu trời trên cổng thành trong sáng, từng đám mây xốp bay nhẹ, một đàn chim én bay qua làm một chíêc lông vũ xuống đất. Thường Sinh lập tức trả lời: "Tôi họ Quan, tên Vũ, tự là Vân Trường". Từ đấy suốt cuộc đời chinh chiến cái tên Quan Vũ đã gắn liền với cuộc đời của ông

Kết nghĩa vườn đào

Lúc bấy giờ, do triều đình hủ bại, giặc giã nỗi lên như ong. Trong đó, giặc Khăn Vàng là mạnh và đông nhất. Dưới sự lãnh đạo của Trương Giác, Trương Bảo và Trương Lương, chúng đánh phá cướp bóc khắp nơi. Vì vậy triều đình đã phải thực hiện tuyển mộ thêm quân để đánh giặc. Ba anh em Lưu - Quan - Trương tình cờ gặp nhau khi đi tuyển mộ và đã kết nghĩa tại vườn đào nhà Trương Phi. Lưu Bị làm anh cả. Quan Vũ làm anh hai. Trương Phi là em út. Xuyên suốt trong Tam quốc, cụm từ "kết nghĩa vườn đào" là tượng trưng cho tình nghĩa huynh đệ thắm thiết, keo sơn, không vì phú quý, công danh, khó khăn, hoạn nạn mà mờ phai.

Giết Hoa Hùng

Lúc bấy giờ, Đổng Trác lộng quyền, ngang tàn vô đạo, xem mạng người như cỏ rác. Khi vào chầu, thì lạy vua không phải xưng tên, được quyền đem gươm vào điện. Sau khi Tào Tháo mưu sát Đổng Trác không thành trở về tìm cha và phát cờ khởi nghĩa. Chư hầu liền tụ về quyết giết gian thần Đổng Trác. Lúc này, Quan Vũ là tay mã cung. Sau khi Bảo Trung (鲍忠), Tổ Mậu (祖茂), Du Thiệp (俞涉), Phan Phượng (潘凤) của liên minh chết dưới tay Hoa Hùng thì Quan Vũ mới ra dưới trướng xin Viên Thiệu cho ra đánh. Viên Thuật (em Viên Thiệu) không nhìn rõ oai hổ tướng liền quát mắng và đuổi ra ngoài. Vân Trường liền khẳng khái đáp: Nếu tôi đánh không được thì xin chịu tội. Tào Tháo tự tay rót chén rượu mời Quan Vũ trước khi ra trận nhưng Quan Công từ tạ. Lát sau, tiếng chiêng trống long trời lở đất vang lên, Quan Vũ xách đầu Hoa Hùng về thì chén rượu trong tay Tào Tháo vẫn còn nóng.

Trên thực tế, Hoa Hùng bị Tôn Kiên hành hình năm 191 tại Dương Nhân (陽人), sau khi đội quân của ông bị đánh bại.

Đầu hàng Tào Tháo

Thực ra nói đầu hàng cũng không phải mà vì thất lạc Lưu Bị và lo lắng cho 2 người chị dâu , Quan Vũ đành phải tạm nương nhờ Tào Tháo đến khi có tin tức của Lưu Bị ông sẽ đi ngay . Lúc này Tào Tháo đối xử với ông rất hậu tặng áo gấm , vàng bạc không biết bao nhiêu mà kể , ông đều từ chối . Chỉ đến khi Tào Tháo tặng Xích Thố ông mới thực sự vui mừng vì khi có con ngựa đi ngàn dặm này ông có thể gặp Lưu Bị bất cứ lúc nào . Nghe ông nói vậy Tháo chỉ biết lắc đầu mà thở dài .

Giết Nhan Lương

Khoảng năm 200 sau công nguyên, Viên Thiệu mở cuộc tấn công Hứa Xương (thủ đô của Tào Tháo bấy giờ) với số quân lên đến khoảng 100.000 người. Viên Thiệu điều Nhan Lương làm tiên phong tấn công xứ Bạch Mã. Quan Vũ lúc này hiện là tướng dưới quyền của Tào Tháo (vì Quan Vũ thất lạc với Lưu Bị, Trương Phi đồng thời bị quân Tào vây nên bất đắc dĩ đầu hàng và làm tướng tạm thời cho Tào Tháo) đã theo tới Bạch Mã để giải vây. Trong khi thấy liền mấy tướng Tào bị Nhan Lương chém chết (ngay cả Từ Hoảng cũng phải thua chạy), Quan Vũ xin được lâm trận lấy thủ cấp Nhan Lương. Chỉ sau một hiệu trống, Quan Vũ cưỡi ngựa xích thố bất thần xông thẳng vào hàng ngũ quân Viên Thiệu. Quan Vũ đi đến đâu thì quân Viên Thiệu phải dãn ra tới đó. Với một nhát chém, Quan Vũ đã lấy được thủ cấp Nhan Lương trong khi viên tướng này còn chưa kịp phản ứng.

Giết Văn Sú

Quân Văn Sú tới, thấy xe lương thảo bỏ bừa bãi thì tan rã hàng ngũ mà thi nhau tranh cướp. Lúc đó Tào Tháo mới nổi mật lệnh, bao nhiêu tinh binh mai phục đổ ra, chém giết quân Viên Thiệu không sao kể xiết ! Văn Xú đành phải chạy dài. Tào Tháo nhìn thấy hỏi : - Có ai ra bắt Văn Sú danh tướng Hà Bắc cho ta ? Từ Hoảng, Trương Liêu cùng xông ra, Văn Sú lấy cung bắn một mũi tên trúng vào chóp mũi Trương Liêu, lại bắn mũi nữa, con ngựa của Trương Liêu quỵ xuống. May có Từ Hoảng chạy tới, Văn Xú đối địch luôn và đuổi Từ Hoảng phải thua chạy, chợt một tướng mặt đỏ râu dài xuất hiện, chặn đường Văn Sú mà rằng . Tướng giặc chớ chạy ! Văn Sú quát mắng : - Ngươi chờ xem ta trả thù cho Nhan Lương đây . Nói rồi hai bên đánh vùi, hồi lâu Văn Sú không cự nổi Quan Công, toan chạy thì đã bị một nhát thanh long đao, đầu bay khỏi cổ . Quân Hà Bắc phần bị giết, phần rớt xuống sông vô số .

Qua năm ải chém sáu tướng

Sau khi biết được tin tức của Lưu bị, Vân Trường lập tức trả lại Tào Tháo ấn tín và các đồ Tào Tháo thưởng cho để tìm về với Lưu Bị bên Viên Thiệu. Tào Tháo coi là người trung nghĩa nên ra tiễn biệt. Vân Trường bảo vệ 2 vị phu nhân(vợ Lưu Bị) đi, trên đường đi vì không có giấy thông hành nên bị tướng giữ ai không cho qua. Quan Vũ 1 mình 1 ngựa chém 6 tướng: Khổng Tú, Mạnh Thản, Hàn Phúc, Biện Hỷ, Vương Thực, Tần Kỳ.
Tha Tào Tháo ở lộ Hoa Dung
Khi ấy sau trận Xích Bích, Gia Cát lượng biết được Quan Vân Trường là người nghĩa khí nhất định tha cho Tào Tháo ở Lộ Hoa Dung là ải cuối cùng khi Tào Tháo thoát chạy khỏi trận Xích Bích. Quả thật khi giáp mặt Vân Trường , Tào Tháo đã kể lại thâm tình xưa từng giúp đỡ Vân Trường thế nào . Vân Trường đành thả Tào Tháo đi tuy rằng đã lập quân lệnh trạng với Gia Cát Lượng. Nhưng tất cả chuyện đó đều nằm trong tầm tay của Gia Cát Lượng vì ông không muốn Tào Tháo mất sớm mà muốn hình thành thế Tam Quốc sau này và cũng nhằm giúp Vân Trường trả nghĩa cho Tào Tháo khi xưa

Hiển thánh ở núi Ngọc Toàn

Khi ấy linh hồn Quan Công chưa tan. Ðến một nơi tên Kinh Môn Châu, Hướng Dương huyện có hòn núi tên Ngọc Toàn. Ở trên có nhà sư Phổ Tịnh. Ðêm ấy bỗng có liếng la lớn: - Trả đầu cho ta . Phổ Tịch nhìn lên thấy có ngườl cỡi con Xích Thố , tay cầm thanh long đao, tả hữu hai tướng. Ba người ở trên không sa xuống núi Ngọc Toàn. Phổ Tịnh hỏi ở đâu? Hồn Vân Trường bèn thưa: - Bạch sư cụ đây là đâu? Xin cho biết pháp danh? Phổ Tịnh nói: - Lão tăng tên Phổ Tịnh, khi trước tại ải Dịch Thủy đã gặp Quan Hầu nay quên rồi sao? Quan Công nói: - Trước kia nhờ ngài cứu, tôi vẫn ghi ơn, nay tôi đã chết. Xin ngài chỉ dẫn đường mê muội cho tôi. Phổ Tịnh nói: - Xưa trái nay phải, nhất thiết không bàn, nhân trước quả sau. Nay tướng công bị Lữ Mông làm hại đòi trả đầu ra đây, thế thì trước kia Nhan Lương, Văn Xú và sáu tướng trong 5 ải và biết bao đầu quân lính, thì đòi vào đâu? Quan Công tỉnh ra, biến mất. Phổ Tịnh biết Quan Công đã hiển thánh và chịu phép qui y.
Thất trận

Quan Công bị tướng Ngô là Lã Mông dùng kế "bạch y độ giang" lừa lấy Kinh Châu, không được tiếp viện và bị bắt sống ở phía bắc Mạch Thành (ở phía đông nam của Đương Dương, Hồ Bắc ngày nay). Tôn Quyền dụ hàng ông không được nên đã giết Quan Vũ. Khi chết ông 58 tuổi

McCartney

McCartney
 Double Stars

Trương Phi

Trương Phi (chữ Hán: 張飛; sinh chưa rõ - mất 221) là một danh tướng của nước Thục thời Tam Quốc. Ông thường được biết đến là một viên tướng nóng nảy, đối xử tốt với cấp trên nhưng không đối xử tốt với cấp dưới.

Trương Phi lấy con gái của Hạ Hầu Uyên làm vợ, khi cô bị quân của Trương Phi bắt được trong một lần vào rừng kiếm củi. Họ có 2 con gái. Con gái lớn trở thành hoàng hậu Thục Hán sau khi cưới Lưu Thiện với Gia Cát Lượng làm ông mai. Sau khi con gái lớn của Trương Phi mất vì bệnh, Gia Cát Lượng lại một lần nữa làm mai để cưới con gái nhỏ của Trương Phi cho Lưu Thiện. Cô em nối tiếp cô chị làm hoàng hậu nước Thục.

Trương Phi được miêu tả cụ thể trong tiểu thuyết Tam Quốc chí của Trần Thọ. Một vài nguồn còn cho rằng ông là một hoạ sĩ tài năng.

Trương Phi bị tuỳ tướng của mình là Trương Đạt và Phạm Cương sát hại khi đang chuẩn bị cuộc tấn công Đông Ngô để báo thù cho người anh kết nghĩa của mình là Quan Vũ. Trương Đạt và Phạm Cương sau đó trốn sang Đông Ngô.

Trong tiểu thuyết
Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Trương Phi tự là Dực Đức (翼德), quê ở Trác Quận nước Yên. Ông đã cùng với Lưu Bị và Quan Vũ kết bái làm huynh đệ trong vườn đào. Ông là em út trong ba người. Ông được Chiêu liệt hoàng đế tức Lưu Bị phong làm một trong ngũ hổ đại tướng.

Ông là một người rất khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Ông nổi tiếng với võ nghệ siêu phàm cùng với sự dũng cảm coi thường cái chết. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Như trận đánh cầu Trường Bản, ông đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui quân. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh. Trong trận ấy, viên quan theo hầu Tào Tháo là Hạ Hầu Lan đã hoàng sợ đến mức vỡ mật mà chết.

Ngoài ra, có thể nói ông là một trong 2 tướng có thể đấu ngang ngửa với Lã Bố cũng với Hứa Chử. Trong trận Hổ Lao, ông đã đấu với Lã Bố hơn 150 hiệp bất phân thắng bại để cứu Công Tôn Toản. Tổng cộng ông đã đấu với Lã Bố 4 trận, tất cả gần 500 hiệp và đều bất phân thắng bại.

Người sau có thơ khen rằng:

Trường Bản cầu này sát khí sinh
Ngang mâu, chững ngựa, mắt long lanh
Bên tai một tiếng vang như sấm
Khiếp vía quân Tào vội rút nhanh
Cũng chính vì tính nóng nảy của mình mà ông đã chuốc họa sát thân. Do nôn nóng báo thù cho anh là Quan Vũ bị quân Đông Ngô hại nên ông thường đánh đập quân sĩ. Trong đó có hai tên hạ quan dưới trướng là Trương Đạt và Phạm Cương, chúng đã âm thầm sát hại ông vì lo sợ bị ông chém đầu vì ko hoàn thành quân lệnh ông giao là phải lo quân trang cờ xí màu trắng cho toàn quân của ông mặc để tang anh là Quan Vũ trong cuộc tấn công báo thù quân Đông Ngô.Đêm đó ông say rượu và bị sát hại. Ông mất ở tuổi 55. Truơng Phi trong con mắt nhiều người là 1 vị tướng có vẻ như hữu dũng vô mưu nhưng hoàn toàn ko phải như vậy. Ông cũng là 1 tướng có mưu lược dù không nổi bật như tài năng võ nghệ của mình.Những hành động như tha cho Nghiêm Nhan thu phục cho Thục 1 danh tướng hay mẹo cột cành cây vào đuôi ngựa quét cho đất cát tung mù làm quân Tào nghi ngờ có phục binh tại cầu Trường Bản chứng tỏ ông cũng là người có mưu lược.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Lưu Bị

Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị (161-223) là người đã xây dựng Thục Hán thời Tam Quốc.

Cuộc đời
Kết nghĩa vườn đào
Lưu Bị tự là Huyền Đức, người huyện Trác (nay là huyện Trác, tỉnh Hà Bắc). Ông là con Lưu Hoằng, cháu Lưu Hùng, con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con Hán Cảnh đế. Đến đời Lưu Bị, nghiệp nhà sa sút, đành dựa vào nghề đan giày, bện chiếu mà sống. Ông đọc sách mà không chịu dụng công, lại thích chơi chó cưỡi ngựa, thích nghe âm nhạc, nghiên cứu cách ăn mặc. Ông thích kết giao với người hào kiệt, cùng Quan Vũ, Trương Phi đối xử với nhau rất tốt. Ông nhờ tham gia trấn áp khởi nghĩa quân Khăn vàng mà nổi lên, từng theo Công Tôn Toản tham gia quân Quan Đông đánh Đổng Trác

Không có đất cắm dùi
Lưu Bị trong thời gian trước khi gặp Khổng Minh thì phải đi nương nhờ nhiều người. Đầu tiên Lưu Bị mượn quân của Công Tôn Toản đến Từ Châu giúp Đào Khiêm chống lại Tào Tháo, Đào Khiêm mến tài, đức của Lưu Bị nên có ý nhượng Từ Châu cho Lưu Bị nhưng Lưu Bị không nhận và ra trấn giữ Tiểu Bái. Đào Khiêm bệnh mất, trước khi mất đã cầu xin Lưu Bị nhận Từ Châu. Lưu Bị bất đắc dĩ phải nhận. Sau đó Lữ Bố thua trận đến nương nhờ Lưu Bị, Lưu Bị muốn nhường Từ Châu cho Lữ Bố. Lữ Bố toan nhận nhưng thấy Quan Công, Trương Phi không hài lòng nên chối từ. Sau đó, nhân lúc Lưu Bị đánh Viên Thuật, giao Từ Châu lại cho Trương Phi, Lữ Bố đánh úp Từ Châu khiến Lưu Bị phải đến nương nhờ Tào Tháo, nhờ Tào Tháo giúp đánh lại Lữ Bố.

Tào Tháo đánh bại Lữ Bố ở thành Hạ Bì, thắt cổ Lữ Bố ở lầu Bạch Môn rồi dẫn Lưu Bị về triều đình ra mắt Hán Hiến Đế. Hán Hiến Đế xem trong gia phả rồi nhận Lưu Bị làm chú, từ đó Lưu Bị còn được gọi là Lưu Hoàng thúc. Hán Hiến Đế bị Tào Tháo ức hiếp nên viết tờ "Y đái chiếu" cho Đổng Thừa nhờ Đổng Thừa diệt Tào Tháo. Đổng Thừa liên kết với Lưu Bị và Mã Đằng. Lưu Bị sau đó xin Tào Tháo đi diệt Viên Thuật rồi trốn khỏi Tào Tháo. Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, ba anh em Lưu, Quan, Trương thất tán mỗi người một nơi. Lưu Bị đến nương nhờ Viên Thiệu, sau Quan Vũ chém chết 2 tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, Văn Xú nên Lưu Bị suýt bị Viên Thiệu chém đầu. Sau đó ba anh em đoàn tụ, Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu sau đó Lưu Bị đồn trú ở Tân Dã, chiêu nạp hiền tài nghĩa sĩ, đi khắp nơi cầu hiền.

Gặp thời
Năm ông 47 tuổi, nghe lời Từ Thứ nói ở Long Trung (nay là Tương Dương, Hồ Bắc) có người có tài trị nước tên là Gia Cát Lượng, ông liền lặn lội đường dài, ba lần tìm đến thăm. Gia Cát Lượng vì cảm động vì lòng chân thành nên ra khỏi lều tranh, giúp ông trị nước.

Năm 207, Gia Cát Lượng cùng Lưu Bị bàn về tình hình thiên hạ, kiến nghị Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền lấy Kinh Châu, Ích Châu, và chống họ Tào. Từ đó Lưu Bị coi cuộc đối thoại đó là tư tưởng chiến lược thống nhất thiên hạ.

Năm 208, Tào Tháo dẫn đại quân từ Giang Lăng dọc Trường Giang tiến thẳng xuống Hạ Khẩu, Lưu Bị lập tức phái Gia Cát Lượng sang Giang Đông liên hiệp với Tôn Quyền. Chu Du dùng hoả công đại phá quân Tào ở Xích Bích, hình thành cái thế chân vạc.

Lên ngôi Hán Trung Vương
Năm 214, Lưu Bị giả vờ đến giúp đỡ Lưu Chương, là người cùng họ, nhưng đánh lén, chiếm lấy đất Thục. Từ đó ông có cả đất Kinh Châu và Ba Thục, trở thành một quyền lực lớn ở phía Tây, nhưng quân sư là Bàng Thống chết trong cuộc chiến.

Năm 219, quân Lưu Bị chiếm được Hán Trung, giết được Hạ Hầu Uyên, và tự xưng là Hán Trung Vương. Ông phong Ngũ Hổ Tướng gồm có: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung. Ngụy Diên được cho trấn thủ Hán Trung.

Năm 220, sau khi Tào Phi xưng đế (Ngụy Văn Đế), Lưu Bị tự lập làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hán để kế tục nhà Hán (sử gọi là Thục Hán), đóng đô ở Thành Đô.

Kết cục
Liên minh Thục - Ngô có lẽ sẽ kéo dài và Thục sẽ không mất nếu như không xảy ra biến cố Tôn Quyền sai đại tướng Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, chém Quan Vũ, khiến Lưu Bị nổi giận mang quân báo thù làm cho quan hệ liên hiệp giữa Tôn Quyền và Lưu Bị tan vỡ, chiến tranh Ngô-Thục nổ ra. Cũng bắt đầu từ đấy hễ Thục bị Ngụy tấn công thì Ngô không thèm dòm tới cũng như Ngô bị Ngụy xâm lăng thì Thục cũng không tiến sang đông. ("sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê).

Năm 221, Lưu Bị lấy danh nghĩa trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, Tôn Quyền rất lo ngại nên sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, bị Lục Tốn đánh cho thua to. Năm sau, bị bệnh mất ở thành Bạch Đế (nay là huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên), thọ 62 tuổi. Ông được truy tôn là Hán Chiêu Liệt đế. Con trưởng là Lưu Thiện lên kế vị, tức là Hán Hậu Chủ

Tính cách

Tuy Tam Quốc Diễn Nghĩa hết lời ca ngợi Lưu Bị như người "Thương dân, lấy dân làm gốc", nhưng rõ ràng Lưu Bị là người có tham vọng rất lớn, và đã phản bội rất nhiều người. Ông cùng Lã Bố ở Từ Châu, Lã Bố từng cứu mạng ông, nhưng Lưu Bị lại theo Tào Tháo giết Lã Bố, sau đó phản Tào Tháo để chạy theo Viên Thiệu, sau đó rời bỏ Viên Thiệu để nương nhờ Lưu Biểu, rồi chiếm lấy Kinh Châu, lập Lưu Kỳ làm bù nhìn.

Rõ ràng nhất là việc phản bội Lưu Chương, trở mặt đánh chiếm đất Thục, rồi cho Lưu Chương chức "quan Huyện" để giam lỏng. Lưu Bị lại lừa dối thông gia, mượn Kinh Châu rồi không chịu trả. Ông cũng cho người giết Bành Dạng, một trong số những người giúp ông chiếm Ba Thục. Và sự giả dối của Lưu Bị cũng bộc lộ phần nào trong các mẩu chuyện như "Mượn sấm để lừa Tào Tháo", "Quẳng con mua lòng tướng".

Lưu Bị là một nhà lãnh đạo có sức hút và rất giỏi thu phục lòng người. Ông có trong tay khá nhiều nhân tài, nhưng lại là một tướng lĩnh rất kém. Lưu Bị nổi tiếng là "tướng thua luôn". Quả thật trận nào do Lưu Bị cầm quân là chắc chắn thua, cho dù ít hay nhiều quân. Trong trận đánh cuối cùng của ông, mặc dù quân Thục đông hơn quân Ngô nhiều, Lưu Bị đã nướng sạch toàn bộ quân sĩ trong nước.

Mặc dù như vậy, Lưu Bị lại gặp may rất nhiều. Đầu tiên, ông có 1 quân sư giỏi là Từ Thứ, nhưng sau đó, vì bị Tào Tháo mang tính mạng của mẹ mình ra doạ nên Từ Thứ phải bái biệt Lưu Bị, đi sang với Tào Tháo. Những trước khi đi, Từ Thứ có nói với Lưu Bị rằng " Dù Thứ này đi sang với tên hoạn quan Tào Tháo nhưng cả đời, Thứ thề không cống hiến cho hắn bất kì 1 kế nào. " Và Từ Thứ còn tiến cử Gia Cát Lượng - 1 con người cực kì giỏi làm quân sư cho Lưu Bị. Lưu Bị 3 lần hạ cố tới Ngoạ Long Cương tìm Gia Cát Lượng và cuối cùng, Gia Cát Lượng đã làm quân sư cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị có thêm 1 đại quân sư nữa là Bàng Thống - 1 người ngang tài với Gia Cát Lượng.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Triệu Vân

Triệu Vân (趙雲-Zhao Yun) (168-229), tự là Tử Long (子龍) người vùng Thường Sơn, là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục, với Lưu Bị là vị hoàng đế đầu tiên. Ông được phong chức Hổ uy Tướng quân và đứng thứ ba trong Ngũ Hổ Tướng của nhà Thục, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.

Cuộc đời
Triệu Vân sinh năm 168 tại thành Chân Định thuộc vùng Thường Sơn (bây giờ là Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc). Ông cao khoảng 1,92 m (6,3 bộ), mày rậm mắt to, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược. Ông theo về với Công Tôn Toản trong một lần Triệu Vân cứu Công Tôn Toản thoát chết, một tướng quân cát cứ trong vùng vào khoảng cuối năm 191 hoặc đầu năm 192, với danh nghĩa thủ lĩnh một đội quân tình nguyện nhỏ. Trong năm 192, Triệu Vân được xếp dưới quyền trực thuộc của Lưu Bị, người mà khi ấy chỉ là bộ tướng của Công Tôn Toản, giữ chức Phiêu kỵ tướng quân. Lưu Bị có vài nghìn kỵ binh, và Triệu Vân được điều đến trong hàng ngũ này. Ngay sau đó, Triệu Vân từ bỏ Lưu Bị và Công Tôn Toản để về quê chịu tang anh trai. Triệu Vân lại theo về với Lưu Bị vào năm 200. Từ đó Triệu Vân quan hệ rất gắn bó với Lưu Bị. Tam Quốc Chí kể họ cùng ngủ chung một giường trong thời gian hai người ở tại Gia Thành. Trong khoảng thời gian đó, Lưu Bị phái Triệu Vân bí mật tuyển mộ thêm quân để tăng cường cho đội quân trực thuộc của Lưu Bị. Kể từ đây Triệu Vân chính thức bỏ Công Tôn Toản theo phò Lưu Bị.

Trận Trường Bản
Năm 208, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo thất bại và bị đuổi chạy qua Trường Bản. Trong trận Trường Bản thì Triệu Vân đã liều mạng sống bảo vệ gia quyến Lưu Bị, cứu được con trai Lưu Bị là Lưu Thiện (A Đẩu), tạo nên điển tích Tử Long một ngựa cứu ấu chúa nổi tiếng đến ngày nay. Sau Đại chiến Xích Bích, Triệu Vân góp công lớn giúp Lưu Bị dành được phần nam Kinh Châu, và trở thành một trong những tướng lĩnh quan trọng trong tập đoàn Lưu Bị, được phong chức "đại tướng quân". Khi Lưu Bị dẫn quân vào Ích Châu (益州, nay là tỉnh Tứ Xuyên, 四川), ông đã giao cho Triệu Vân phòng thủ căn cứ chính ở Công An (公安, bây giờ thuộc tỉnh Hồ Bắc, 湖北) với tư cách "lưu dẫn tư mã" (留營司馬).

Bài thơ về Triệu Vân cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản:

Máu đỏ chan hòa áo giáp hồng
Đương Dương ai kẻ dám tranh hùng
Xưa nay cứu chúa xông trăm trận
Chỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long
Thời gian sau
Sau đó, Triệu Vân theo Gia Cát Lượng và Trương Phi vào Thục. Triệu Vân tự dẫn quân độc lập, hành quân qua Giang Châu (江州) và Kiến Vi (犍為) tới Thành Đô, giúp Lưu Bị chiếm được Thành Đô. Khi Lưu Thiện lên ngôi năm 223, Triệu Vân được phong "Chinh Nam tướng quân" (征南將軍) và phong "Vĩnh Trang Đình Hầu" (永昌亭侯). Sau đó lại được phong "Trấn Đông tướng quân" (鎮東將軍).

Năm 227, Triệu Vân khi đó là tướng quân đứng đầu quân đội nước Thục, theo Gia Cát Lượng dẫn quân lên Hán Trung (漢中) trong cuộc "bắc phạt" lần thứ nhất. Mùa xuân năm sau, Triệu Vân được lệnh hành quân qua Tà Cốc (斜谷) làm nghi binh cho quân chủ lực. Phải chống chọi với binh lực mạnh hơn nhiều của đại tướng Ngụy là Tào Chân (曹真), Triệu Vân đã phòng thủ thành công và dẫn quân rút lui an toàn. Ông lại được phong làm "Định Quân tướng quân".

Cuối đời
Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Ông được Lưu Thiện truy phong làm "Thuận Bình hầu" (順平侯) năm 261

Đánh giá

Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng trong thời đại ông.Trong đoạn Lưu Bị thoát khỏi mưu mô của Sái Mạo hay đoạn đòi lại A Đẩu trên sông..., Triệu Vân luôn tỏ rõ là người biết suy xét thiệt hơn, bỏ qua tư lợi cá nhân, vì sự nghiệp lớn. Điều này chúng ta vẫn thấy một vị đại tướng thường mắc phải như Quan Vũ, Quan Vũ đã hơi vì tự tôn cá nhân mà quên đi lợi ích của cả một tập thể, khiến nhiều lần mắc sai lầm, tệ hại nhất là đánh mất Kinh Châu và tự mình chết uổng mạng. Đánh mất Kinh Châu cũng đã ảnh hưởng lớn tới cục diện 3 nước Ngô, Thục, Ngụy. Mặc dù Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường. Chính Triệu Vân đã dám đứng ra can gián Lưu Bị tiến đánh Đông Ngô để trả thù bằng những lý do sáng suốt.

Gia đình
Triệu Vân có hai con trai là Triệu Thống và Triệu Quảng. Người con thứ hai là thuộc cấp của Khương Duy và chết tại trận Đạp Trung.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Mã Siêu


Mã Siêu 馬超 (176-223), tự Mạnh Khởi 孟起, là một vị tướng của phe Thục Hán sống vào cuối đời nhà Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, là dòng dõi Phục Ba tướng quân Mã Viện đời Đông Hán. Ông có biệt danh là "Cẩm Mã Siêu" (tức Mã Siêu tráng lệ) nhờ khả năng chiến trận và bộ áo giáp của ông. Ông là một trong ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán bao gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung
Cuộc đời
Mã Siêu sinh năm 176 tại Lũng Môn (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây). Ông là con trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương. Mã Siêu được miêu tả trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, lúc ra trận mình mặc hổ phù, tay cầm trường thương, oai phong lẫm liệt vô cùng.

Năm 191, Đổng Trác bị Lữ Bố giết chết. Sau đó Lý Thôi, Quách Dĩ là 2 tướng cũ của Đổng Trác đánh bại Lữ Bố, uy hiếp Hán Hiến Đế, nắm quyền ở Trường An. Năm 193, thứ sử Tây Lương Mã Đằng liên kết với Chinh tây tướng quân Hàn Toại dẫn 10 vạn quân về Trường An. Lý Mông, Vương Phương là 2 tướng của Đổng Trác kéo quân ra nghênh chiến. Mã Siêu (khi đó mới 17 tuổi) đâm chết Vương Phương, bắt sống Lý Mông. Lý Thôi, Quách Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả bấy giờ mới chỉ giữ vững các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa được hai tháng, quân Mã Ðằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút quân về.

Năm 211, Tào Tháo lấy danh nghĩa thiên tử triệu Mã Đằng về triều. Mã Đằng bèn tìm kế phản Tào Tháo nhưng kế hoạch bại lộ, Mã Đằng và 2 con Mã Hưu, Mã Thiết bị Tào Tháo giết. Mã Đại là cháu Mã Đằng trốn về được báo cho Mã Siêu. Mã Siêu tức giận hợp cùng Hàn Toại và bộ tướng là Bàng Đức kéo 20 vạn quân báo thù cho cha. Quân Tây Lương chiếm được Trường An, rồi chiếm luôn ải Đồng Quan. Tào Tháo kéo quân đến ải Đồng Quan bị Mã Siêu đánh bại, nhờ Hứa Chử cứu thoát, từ đó chỉ cố thủ. Mã Siêu cho quân tấn công liên tục nhưng gặp lúc mùa đông sắp đến, Hàn Toại bàn với Mã Siêu rút quân về. Tào Tháo nhân cơ hội đó thực hiện kế phản gián, khiến Mã Siêu đánh Hàn Toại. Nhân lúc quân Tây Lương rối loạn, Tào Tháo phản công, đánh bại Mã Siêu. Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại mở vòng vây chạy thoát.

Năm 213, Mã Siêu trốn về Lũng Tây rồi đem quân đánh chiếm Ký Thành. Mã Siêu trọng dụng Dương Phụ là tướng cũ của Ký Thành. Sau đó, Dương Phụ bất ngờ đánh úp Mã Siêu, lại gặp Hạ Hầu Uyên trợ giúp Dương Phụ nên Mã Siêu chống cự không lại, cùng Bàng Đức, Mã Đại đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ.

Năm 214, Mã Siêu nhận lệnh của Trương Lỗ tiến đánh ải Hà Manh để cứu viện cho Lưu Chương đang bị Lưu Bị tấn công. Mã Siêu đến Hà Manh quan, đánh nhau một trận kinh hồn với Trương Phi, sau Lưu Bị nhờ Lý Khôi theo kế Khổng Minh đến dụ hàng Mã Siêu. Mã Siêu liền bằng lòng qui thuận, Lưu Bị đích thân đi đón rước, đãi vào bậc thượng tân. Cuối cùng, Mã siêu đem quân đến Thành Đô, bảo Lưu Chương ra hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu, phong Mã Siêu làm Bình Tây tướng quân thống lĩnh toàn bộ kị binh.

Năm 219, Lưu Bị chiếm Hán Trung của Tào Tháo, sai Mã Siêu cùng Ngụy Diên đem quân truy kích Tào Tháo khi hắn rút chạy khỏi Hán Trung. Sau đó, Lưu Bị sai Mã Siêu trấn giữ Hán Trung, đề phòng quân Ngụy.

Năm 222, Mã Siêu bệnh mất, hưởng thọ 46 tuổi. Trước khi chết, ông viết thư cho Lưu Bị bảo rằng cả nhà ông bị Tào Tháo giết gần hết nên nhờ Lưu Bị chăm sóc cho em mình là Mã Đại là người cuối cùng của nhà họ Mã.

Mã Siêu đại chiến Hứa Chử
Trong trận chiến ở Đồng Quan, Mã Siêu nhiều lần suýt bắt được Tào Tháo nhưng lần nào Tào Tháo cũng nhờ có Hứa Chử cứu thoát. Từ đó, Tào Tháo và quân Ngụy ai cũng gọi Hứa Chử là "Hổ hầu". Mã Siêu kéo quân đến nghênh chiến. Hứa Chữ xin ra đánh Tào Tháo chấp thuận, bèn cho soạn chiến thư. Mã Siêu bảo quyết bắt được "con hổ điên" về xé xác. Hôm sau Mã Siêu đến thấy một tướng địch đứng cạnh Tào Tháo xông ra, mặt như ánh lửa, dáng điệu hung dữ, hét vang như sấm. Mã Siêu biết là Hứa Chủ bèn lao vào. Hai bên đánh nhau cả trăm hiệp chưa phân thắng bại. Hứa Chử liền chạy về, cởi bỏ giáp, trần trùng trục ra đánh tiếp, đánh trăm hiệp nữa Hứa Chữ vứt đao rồi giựt giáo đâm Mã Siêu. Cây giáo gãy đôi, mỗi người cầm một nửa đánh tiếp. Bên này Tào Hồng, Hạ Hầu Huyên ra đánh trợ lực, bên kia Bàng Ðức, Mã Ðại cũng ùa ra. Hai bên đánh loạn, Hứa Chử bị trúng hai mũi tên phải chạy, quân Tây Lương rượt theo, quân Tào đại bại. Mã Siêu về trận bảo với Hàn Toại chưa gặp ai liều mạng như Hứa Chử

Trận chiến tại Hà Manh Quan - Mã Siêu đại chiến Trương Phi

Năm 214, Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại trốn thoát đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ. Sau đó, Lưu Chương là thứ sử Ích Châu cầu cứu Trương Lỗ giúp đánh Lưu Bị. Mã Siêu bèn xin đi cứu Lưu Chương. Trương Lỗ cấp cho Mã Siêu 2 vạn quân cùng Dương Bách, Mã Đại kéo đến ải Hà Manh. Trương Phi nghe tin Mã Siêu kéo đến trước ải bèn xin Lưu Bị cho mình ra đánh nhau với Mã Siêu. Khổng Minh nói khích Trương Phi phải mời Quan Vũ tới mới chống cự được. Trương Phi liền viết quân lệnh trạng và được cử làm tiên phong, Ngụy Diên cũng được đi theo. Huyền Ðức lãnh hậu đội tiếp ứng. Quân hai bên gặp nhau, Dương Bách đánh cùng Ngụy Diên, Dương Bách thua chạy, Ngụy Diên trông thấy Mã Ðại lại ngỡ là Mã Siêu nên xông vào đánh lại giả thua, Ngụy Diên đuổi theo bị Mã Ðại quay lại bắn một mũi tên trúng tay, Ngụy Diên phải chạy về. Vừa lúc đó Trương Phi xông tên đánh bại Mã Đại. Lưu Bị ra lệnh thu quân, bảo Trương Phi dưỡng sức đánh Mã Siêu. Mờ sáng hôm sau, Mã Siêu đã ra trận. Huyền Ðức nhìn sang thấy Mã Siêu đội mão Sư Tử, thắt đai Hổ Phù, bào trắng giáp bạc lóng lánh, cầm giao giục ngựa đi lại như bay nên Lưu Bị thích lắm. Lưu Bị thấy Mã Siêu đang hăng cứ giữ Trương Phi lại không cho xuống, chờ tới quá trưa thấy bên trận địa Mã Siêu có phần rời rạc, mới cho Trương Phi xuống đánh. Mã Siêu nhận ra Trương Phi cầm giáo vẫy một cái, quân lui cả ra phía sau. Sau đó, hai tướng khiêu chiến với nhau rồi lao vào nhau như hai con hổ, quân sĩ hai bên chỉ biết đứng nhìn. Hai bên đánh nhau cả trăm hiệp mà chưa phân thắng bại, Lưu Bị bèn cho thu quân. Hai bên về trận địa nghỉ chốc lát rồi Trương Phi chỉ buộc một chiếc khăn lên đầu, xông ra thách Mã Siêu đánh nữa. Mã Siêu cũng hăm hở nhảy ra, rồi hai bên lại giao tranh hơn một trăm hiệp nữa, hai con ngựa đều mệt lừ mà hai tướng lại càng đánh càng hăng hơn trước. Lưu Bị lại ra lệnh thu quân. Hai tướng lại về trận mình nghỉ rồi Mã Siêu thách Trương Phi chong đuốc đánh ban đêm. Lưu Bị ngăn cản nhưng Trương Phi đang hăng máu nên tiếp tục ra trận. Thế là quân hai bên lại hò reo vang trời dậy đất, trăm cây đuốc được đốt lên, hai hổ tướng lại xông vào nhau tranh thủ một còn một mất, dưới ánh đuốc chập chờn rồi lại lóe sáng. Ðang đánh Mã Siêu nghĩ ra mặt mẹo, liền chạy, Trương Phi đuổi theo thì Mã Siêu ngầm rút cây trùy đồng bên mình mà vụt lại. Trương Phi tuy đuổi mà vẫn đề phòng nên tránh kịp cây trùy nặng cả ngàn cân. Trương Phi lại quay ngựa chạy về. Mã Siêu lại đuổi theo. Bất ngờ, Trương Phi bắn một phát, nhưng Mã Siêu cũng nhanh như chớp tránh thoát. Sau đó hai tướng tạm buông nhau ai về trận nấy. Về sau, Lý Khôi theo kế của Khổng Minh đến dụ hàng được Mã Siêu và cuối cùng Mã Siêu kéo đến Thành Đô bắt Lưu Chương đầu hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu

McCartney

McCartney
 Double Stars

Gia Cát Lượng


Gia Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; bính âm: Zhūge Liàng) (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu ngựa gỗ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Gia Cát Lượng, tự là Khổng Minh, là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào giờ Tuất tháng 4 (Tam Quốc), tự Khổng Minh, Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".

Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).

Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:

Mạc học Khổng Minh trạch phụ
Chi đắc A Thừa xú nữ

Theo sách "Khổng Minh Gia Cát Lượng", chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Cao Tổ lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát.


* Sự Nghiệp:

Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.

Khổng Minh đã giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định Ích Châu, Hán Trung, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.
Đền thờ Gia Cát Lượng

Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.

Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Tháo gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.

Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quan không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.

Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu THiền nghe lời dèm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.

Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiền đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.

Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.

* Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết" Tam Quốc "

Trận Tân Dã:


Sau khi thất bại ở trận Đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tôn và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào. Ông sai Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếng ngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông sai Triệu Vân chia quân ba mặt Ðông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành. Sau đó, quân Tào do Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng thẳng tiến đến thành Tân Dã, thấy cửa thành mở rộng bèn dẫn quân vào thành thì thấy đây chỉ là tòa thành trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đầu mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Bỗng đêm đó, có tin báo lửa cháy, Tào Nhân đang trấn an quân sĩ thì lại có tin báo lửa cháy khắp cả thành. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Quân Tào thi nhau chạy trốn, chết không biết bao nhiêu. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết, đang lúc nguy cấp thì quân dọ thám cho hay phía Bắc không có lửa nên quân Tào đổ ùa sang phía Bắc mà chạy. Tào Nhân chạy được một khoảng, kiểm điểm lại binh mã thấy hao hơn phân nửa. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, thấy quân Tào đã tới, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành còn Tào Nhân dẫn đám bại binh về ra mắt Tào Tháo xin chịu tội. Tào Tháo tức giận Khổng Minh lắm, kéo đại binh tới ngay Tân Dã để báo thù, tạo nên trận Trường Bản sau này. Người đời sau có thơ khen trận Tân Dã: " Phong Bá ra oai Tân Dã huyện, Chúc Dung bay xuống Diễm Ma thiên"

* Trận Xích Bích và việc đoạt 10 vạn mũi tên của Tào Tháo


Trong trận Xích Bích, Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Nhưng Chu Du lại ganh tị với tài năng của Khổng Minh nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du sai Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm hại Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm Lỗ Túc là mưu sĩ của Đông Ngô mượn hai mươi chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời nhưng không hiểu Khổng Minh làm gì. Chu Du mừng thầm nghĩ phen này Khổng Minh chết chắc. 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc đến uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới.Ngay ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm , Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống vang trời, hò reo ầm ĩ. Các tướng Ngụy thấy vậy chạy về báo với Tào Tháo. Tào Tháo thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên loạn xạ vào quân Khổng Minh. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều.

* Khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du

Chu Du chờ hoài không thấy gió đông nên lâm bệnh nặng. Khổng Minh bảo Lỗ Túc có cách chữa bệnh cho Chu Du. Lỗ Túc dẫn Khổng Minh vào gặp Chu Du. Khổng Minh đưa Chu Du 4 câu thơ: "Muốn đánh Tào quân, Phải dùng hỏa công, Mọi sự đều có, Chỉ thiếu gió Ðông." Chu Du thất kinh hỏi cách. Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, cao bảy trượng, chia ba tầng, có hai trăm quân cầm cờ , ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn, xong rồi giao cho Khổng Minh hai trăm quân sĩ cầm cờ quay theo các phương hướng. Chính giữa có cái đàn để Khổng Minh lên cầu gió . Ngày Giáp Tí, Khổng Minh tắm gội sạch sẽ, mặc áo đạo sĩ, đi chân không lên đàn, lại dặn Lỗ Túc về giúp Chu Du việc binh. Sau đó Khổng Minh truyền: "Đạo trường trang nghiêm, pháp linh như núi, các tướng sĩ không được rời khỏi quân vị, không được to nhỏ nói chuyện, không được mở miệng nói bậy, không được giật mình ngạc nhiên, không được tâm sanh tạc điểm, ai trái lệnh bị chém". Rồi Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Ngụy. Chu Du vừa mừng vừa sợ bèn sai Ðinh Phụng, Từ Thịnh đi ngay tới núi Nam Bình để lấy đầu Khổng Minh nhưng tới nơi thì Khổng Minh đã được Triệu Vân cứu thoát. Thực chất, khi Lưu Bị được Chu Du mời sang Đông Ngô để ám sát nhưng không thành, trước khi về có ghé thăm Khổng Minh. Lúc đó, Gia Cát Lượng đã lượng trước được tình hình nên nhờ Lưu Bị bảo Triệu Vân đưa 1 chiếc thuyền đợi sẵn ở chân núi Nam Bình, sau khi cầu được gió Đông xong sẽ trở về ngay, không được trễ. Việc lập đài cầu gió Đông Nam chẳng qua chỉ là hành động phụ thêm của Không Minh nhằm qua mắt Công Cẩn, tiện thoát thân. Qua đó có thể thấy được sự tinh thông thiên văn, thời tiết...của Gia Cát Lượng. Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Phủ có 2 câu thơ: "Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn / Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều".

* Gia Cát Lượng ra Tây Xuyên dùng mẹo bắt Trương Nhiệm


Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị mời Khổng Minh ra Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc thành nhưng ngại Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống nên tìm kế bắt Trương Nhiệm. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, cầm trường thương phục bên tả hễ địch chạy qua thì cứ nhằm tướng cởi ngựa mà đâm, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu chỉ dùng đao chém chân ngựa, Trương Nhiệm sẽ chạy qua đường nhỏ phía Ðông. Trương Phi phục sẳn quân nơi đây mà bắt còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gẫy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Ðức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gẫy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chận, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi hiện ra, quát một tiếng như sấm, Nhiệm luống cuống thì bị các bộ tướng của Phi xông lại bắt sống. Trương Nhiệm bị bắt giải tới gặp Lưu Bị và Khổng Minh nhưng không chịu hàng nên bị Khổng Minh sai đem ra chém. Chiếm được Lạc Thành, Lưu Bị sau chiếm luôn Ích Châu.

* Gia Cát Lượng bệnh mất ở Ngũ Trượng Nguyên và dùng kế giết Ngụy Diên

Khổng Minh sau khi thất bại trong việc tiêu diệt 2 cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc cộng với thất bại của quân Đông Ngô nên ông lâm trọng bệnh ngất xỉu. Khi ông tỉnh dậy bảo Khương Duy ông không sống được lâu nữa, Khương Duy nghe vậy thất kinh khuyên ông dùng phép cầu thọ. Khổng Minh bèn bày đủ lễ vật, trên mặt đất thắp bảy ngọn đèn to, dưới thắp bốn mươi chín ngọn đèn nhỏ, phía trong để một cái đèn bổn mạng rồi cầu trời đất cho ông sống thêm 1 kỷ nữa để phục hưng nhà Hán. 7 ngày sau ông thấy ngọn đèn bổn mạng vẫn sáng thì cả mừng bỗng nghe bên ngoài có tiếng la ó thì thấy Ngụy Diên chạy vào báo có binh Ngụy kéo đến, chẳng may Ngụy Diên lật đật làm đổ ngọn đèn chủ tắt đi. Khỗng Minh bèn quăng gươm xuống đất mà than: "sống chết có mạng không sao cầu được". Khương Duy tức giận muốn chém Ngụy Diên nhưng Khổng Minh ngăn lại. Sau đó, Khổng Minh gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra, dặn dò các tướng cẩn thận, viết di thư cho Hậu chúa Lưu Thiện rồi bày kế cho Dương Nghi khi ông chết đừng phát tang , hãy làm một cái hộp lớn , để ta ngồi trong, lấy bảy hạt gạt bỏ vào miệng ta, dưới chân để một ngọn đèn thật sáng, ba quân không được khóc lóc thì tướng tinh của ông sẽ không rớt làm cho Tư Mã Ý sẽ nghi sợ rồi cho hậu quân lui trước rồi cứ từng dinh mà rút dần. Nếu Tư Mã Ý dẫn quân đến thì đẩy xe có tượng gỗ của ông ra thì Tư Mã Ý thấy vậy tất sợ mà chạy. Lát sau, thượng thư Lý Phúc vào hỏi chuyện triều đình, Khổng Minh dặn dò nữa chừng thì qua đời, hưởng thọ 54 tuổi, bấy giờ là năm Kiến Hưng 12 ( 234).

Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Quân Thục trở về Thành Đô, Hậu chúa Lưu Thiện cho mai táng Khổng Minh tại núi Ðịnh Quân như ý nguyện của ông rồi phong hàm ân cho Khổng Minh làm Trung Vũ Hầu, lập miếu nơi Miêu Dương. Con trai Khổng Minh là Gia Cát Chiêm thủ hiếu cư tang.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Bàng Thống


Bàng Thống, tự Sỹ Nguyên (178-213), đạo hiệu Phượng Sồ tiên sinh, là quân sư nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, sống vào cuối thời nhà Hán, đầu thời Tam quốc, thường được người đời sau so sánh là tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với ông.

Cuộc đời
Bàng Thống quê ở Tương Dương, được La Quán Trung miêu tả trong Tam quốc diễn nghĩa là "người mày rậm, mũi gồ, mặt đen, râu ngắn, hình dung xấu xí". Tư Mã Đức Tháo nhận xét về Bàng Thống như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ".

Lúc đầu, Bàng Thống ở Giang Nam theo Tôn Quyền, trong trận Xích Bích từng theo kế phản gián của Chu Du hiến kế cho Tào Tháo dùng xích sắt ghép các thuyền lại thành một cụm để tránh cho quân sĩ say sóng nhưng thực chất là để dùng kế hỏa công. Nhờ Bàng Thống mà khi Chu Du sử dụng hỏa công, thuyền của Tào Tháo tập trung lại thành một cụm nên không chạy thoát được, cháy rụi hết. Sau khi Chu Du mất, Lỗ Túc tiến cử Bàng Thống cho Tôn Quyền nhưng Bàng Thống không được Tôn Quyền trọng dụng nên đến Kinh Châu theo Lưu Bị

Bàng Thống cùng Lưu Bị vào Tây Xuyên
Năm 212, Lưu Chương, thứ sử Ích Châu bị Trương Lỗ từ Hán Trung uy hiếp nên mời Lưu Bị đem quân từ Kinh Châu đến cứu. Bàng Thống với vai trò là quân sư cùng Lưu Bị dẫn 5 vạn quân vào Tây Xuyên. Khi Lưu Bị vừa đến Tây Xuyên, Lưu Chương thân hành ra đón. Bàng Thống cùng Pháp Chính bàn mưu cho Lưu Bị nhân dịp giết Lưu Chương rồi chiếm lấy Tây Xuyên nhưng Lưu Bị cho đó là hành động bất nhân nên không làm. Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Bàng Thống bảo Ngụy Diên trong tiệc đứng dậy múa kiếm rồi đâm chết Lưu Chương, Lưu Bị đứng dậy ngăn cản và sau khi hết bữa tiệc, ông trách Bàng Thống rất nặng nề.

Sau đó, Lưu Chương nhờ Lưu Bị đến ải Hà Manh Quan để ngăn Trương Lỗ. Lưu Bị vui vẻ ra đi. Về sau, Lưu Bị mượn quân, lương của Lưu Chương không được nên tức giận muốn đem quân đánh Lưu Chương. Bàng Thống bày kế cho Lưu Bị giết Cao Bái và Dương Hoài, hai tướng của Lưu Chương, đoạt ải Phù Quan, tiến đánh Lạc Thành. Lưu Chương nghe tin đó họp cùng các tướng bàn kế chống Lưu Bị.

Cái chết của Bàng Thống
Để đánh chiếm Lạc Thành, quân Kinh Châu chia làm hai đường. Bàng Thống cùng Ngụy Diên làm tiên phong tiến theo con đường nhỏ phía Nam, Lưu Bị theo con đường lớn phía Bắc. Tuy nhiên, Bàng Thống vì chủ quan khinh địch nên lọt vào trận mai phục của Trương Nhiệm, tướng Tây Thục nên cả người lẫn ngựa chết dưới chân gò Lạc Phượng. Trong Tam quốc diễn nghĩa, trước khi Bàng Thống tiến quân, Khổng Minh đã đưa thư cảnh báo nhưng Bàng Thống nghĩ Khổng Minh ghen tị với mình nên không nghe lời can của Khổng Minh và Lưu Bị. Đến lúc hành quân, con ngựa của Thống quáng mắt, sa chân, hất Thống té xuống ngựa. Lưu Bị thấy vậy đổi con ngựa trắng mình đang cưỡi cho Thống. Thống lạy tạ ơn rồi sau đó kết cục như ở trên. Bàng Thống chết năm 35 tuổi (năm 213). Người đời sau theo chuyện đó cho rằng Bàng Thống vì ganh tị với Khổng Minh nên mất sớm, nếu Bàng Thống còn sống thì Lưu Bị có thể đã thống nhất được thiên hạ.

Cái chết của Bàng Thống
Theo Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì Bàng Thống do Trương Nhiệm giết chết và sau cái chết của Bàng Thống thì Khổng Minh mới cùng Trương Phi, Triệu Vân tiến quân vào Ích Châu. Nhưng theo sử liệu[cần dẫn nguồn] ghi lại thì Khổng Minh đã vào Ích Châu trước khi Bàng Thống chết nửa năm. Sở dĩ Khổng Minh phải vào Ích Châu sớm như vậy vì quân Lưu Bị lúc đó bị quân Trương Lỗ từ Hán Trung tấn công khiến quân của Lưu Bị bị bao vây từ 2 phía.
Còn về cái chết của Bàng Thống là do trong khi ông đang đem quân truy kích Trương Nhiệm, sau khi ông dụ được Trương Nhiệm ra khỏi Lạc Thành thì chẳng may bị rơi vào ổ phục kích trúng tên chết. Còn Trương Nhiềm sau đó bị bắt sống và bị Lưu Bị chém đầu.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Hoàng Trung


Hoàng Trung (黄忠, bính âm: Huáng Zhōng; Wade-Giles: Huang Chung), (148-220), là một vị tướng quân đội thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Hoàng Trung được miêu tả là một lão tướng đã gần 60 tuổi nhưng sức địch muôn người, đã lập nhiều công lao cho Lưu Bị và là một trong Ngũ hổ tướng của quân Thục cùng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân và Mã Siêu.

Cuộc đời
Hoàng Trung, tự Hán Thăng (汉升), sinh năm 148, quê ở Nam Dương. Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ Trường Sa; về sau theo Hàn Huyền. Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, sai Quan Vũ đánh Trường Sa, chiếm được Trường Sa và tha không giết Hoàng Trung. Từ đó, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.

Năm 214, tướng Ngụy là Trương Cáp đem quân đến đánh cửa Hà Manh. Hoàng Trung và Nghiêm Nhan đem quân đánh, đẩy lùi được Trương Cáp và chiếm được núi Thiên Đăng là nơi trữ lương thảo của quân Tào.

Năm 217, Lưu Bị và Tào Tháo đánh nhau tại Hán Trung, Hoàng Trung chém chết Hạ Hầu Uyên, tướng tâm phúc của Tào Tháo tại núi Định Quân.

Năm 219, Lưu Bị lên làm vua, phong Hoàng Trung nằm trong Ngũ hổ tướng. Năm 220, Lưu Bị đem quân đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi. Hoàng Trung bị thương nặng, sau đó qua đời ở tuổi 72.

Trận chiến tại Thiên Đăng Sơn
Hồi thứ 70, tướng Ngụy là Trương Cáp sau khi thất bại trước Trương Phi ở Ngõa Khẩu Ải được Tào Hồng cấp 5.000 quân đến đánh cửa Hà Manh. Tin báo về Thành Đô. Gia Cát Lượng dùng kế khích tướng Hoàng Trung. Hoàng Trung xin cùng lão tướng khác là Nghiêm Nhan ra trận. Lưu Bị đồng ý. Các tướng ai nấy đều cười khẩy.

Hoàng Trung muốn chiếm núi Thiên Đăng là nơi cất giữ lương thảo của quân Tào nên nghĩ ra một kế. Hoàng Trung giả vờ thua quân Tào mấy trận liền, rút về cửa ải. Huyền Đức lo lắng, hỏi Khổng Minh. Khổng Minh bảo là mẹo của Hoàng Trung để quân địch sinh kiêu. Các tướng không tin. Lưu Bị sai Lưu Phong ra tiếp ứng.

Đến canh 2, Hoàng Trung dẫn 5.000 quân từ cửa ải kéo xuống. Quân Tào không phòng bị nên thua lớn, chết không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng Trung đuổi đến sáng, cướp lại được nhiều trại sau đó lại thúc quân đuổi theo. Quân Tào rút về núi Thiên Đăng. Sau đó quân Tào trở lại phản công nhưng thất bại. Hàn Hạo, Hạ Hầu Đức bị giết. Quân Tào bỏ núi Thiên Đăng chạy về núi Định Quân. Huyền Đức nhân dịp đó khởi binh đến đánh Hán Trung, thưởng cho Hoàng Trung, Nghiêm Nhan rồi sai Hoàng Trung và Pháp Chính đem quân đánh núi Định Quân

Cái chết của Hoàng Trung
Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. 2 người con trai của Quan Vũ và Trương Phi là Quan Hưng và Trương Bào liên tiếp lập công nên Lưu Bị khen ngợi và bảo các tướng theo mình từ trước nay đã già cả hết, không còn làm được gì. Hoàng Trung nghe thế tức giận liền dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết tướng Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Quan Hưng, Trương Bào đến khen ngợi Hoàng Trung và khuyên ông quay về nhưng Hoàng Trung không nghe. Ðánh được vài hiệp, Phan Chương bỏ chạy, Hoàng Trung rượt theo, không ngờ bị Phan Chương bắn một mũi tên, Hoàng Trung né khỏi, rồi lại rượt theo nữa. Rượt được chừng vài dặm, xảy có tiếng chiêng trống nổi dậy, hai đạo binh mai phục ào tới, một phía là Chu Thái, một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Hoàng trung cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu. Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm và nhận lỗi. Hoàng Trung bảo mình đã già, có chết cũng vừa, xin Lưu Bị bảo trọng long thể để chiếm Trung Nguyên. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế

ĐiếmChúa

ĐiếmChúa
 Búa Đá Đôi

Hứa Chử thì phải có Điển Vi Tiểu sử danh tướng thời Tam Quốc 2223

Điển Vi

Điển Vi (?-197) là một viên tướng sống vào cuối đời nhà Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Điển Vi là người theo bảo vệ Tào Tháo, người đã xây dựng nên nhà Đại Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.


Cuộc đời
Điển Vi quê ở Trần Lưu. Năm 189, Điển Vi theo thái thú Trương Mạc, sau vì lỡ tay giết người nên bỏ trốn sau về với Hạ Hầu Đôn, danh tướng của Tào Tháo. Sau Điển Vi được Hạ Hầu Đôn tiến cử cho Tào Tháo. Tào Tháo thấy Vi sức khỏe phi thường nên cho làm chức Trướng tiền đô úy, cho đi theo bảo vệ Tháo. Sau đó, Vi lập nhiều công trạng của Tháo nên được Tào Tháo rất tin tưởng.

Năm 197, Tào Tháo dẫn 15 vạn quân đánh Trương Tú ở Uyển Thành. Trương Tú đầu hàng. Sau vì Tào Tháo tư thông với thím dâu của Trương Tú nên Trương Tú tức giận bất ngờ đánh úp Tào Tháo. Tào Tháo tìm đường trốn. Nhờ có Điển Vi chặn cửa trước nên Tào Tháo mới thoát được. Sau đó Điển Vi hi sinh anh dũng. Tào Tháo rất thương tiếc Điển Vi nên khi về Hứa Đô, lập đền thờ Điển Vi và phong cho con trai Điển Vi là Điển Mãng chức Trung lang và nuôi dưỡng trong phủ.

Trận chiến tại Uyển Thành

Năm 197, Tào Tháo đem quân đánh Trương Tú. Trương Tú sợ quân lực của Tào Tháo nên đầu hàng. Nhưng sau đó Tào Tháo lại tư thông với thím dâu của Trương Tú nên Trương Tú tức giận, muốn đánh Tháo nên bàn với mưu sĩ là Giả Hủ và tướng là Hồ Xích Nhi. Hồ Xích Nhi bảo Tào Tháo có Điển Vi bảo vệ nên rất khó đánh, nên dùng kế ăn cắp đôi thiết kích của Vi. Thế là Trương Tú mời Điển Vi đến uống rượu cho say mèm rồi ăn cắp đôi thiết kích của Vi rồi đêm đó đốt lửa tấn công Tháo. Tào Tháo vội vàng bỏ chạy. Ðiển Vi say rượu đang ngủ, trong mơ màng chợt nghe tiếng ngựa và tiếng người reo hò, giật mình vùng dậy, sờ đến đôi thiết kích thì không thấy đâu cả lại nghe tin Trương tú kéo quân đến nên Vi vội vàng giật lấy cây kiếm của lính canh chạy ra ngoài thì thấy vô số quân mã, cầm chặt giáo dài đánh bừa vào trại.

Điển Vi lăn sả vào đám quân ấy, chém giết một lúc chết hơn vài chục người, quân mã ấy mới lui, lại có quân bộ kéo đến. Hai bên giáo mác tua tủa như ngọn lau, mình Vi không một mảnh giáp, trên dưới bị vài mươi nhát đâm nhưng Vi vẫn cứ lăn sả vào đánh. Gươm mẻ không dùng được, Vi bỏ gươm, hai tay chụp ngay lấy hai xác chết làm khí giới, quật chết một lúc chết tám chín người. Giặc thấy thế không dám đến gần, chỉ đứng đằng xa bắn tên lại. Tên bắn như mưa, Ðiển Vi vẫn liều chết giữ cửa trại, nhưng quân giặc đã kéo được vào cửa sau, Ðiển Vi lại bị một mũi giáo đâm trúng giữa lưng. Vi kêu to một tiếng, máu chảy đầy đất rồi chết. Ông chết được nửa giờ rồi mà vẫn không ai dám đi qua cửa trước.

Tào Tháo nhờ có Điển Vi chặn cửa trước nên thoát nạn chạy được về Hứa Đô nhưng mất người con trai trưởng và người cháu. Tào Tháo thương tiếc Vi vô cùng, sai lập đền thờ và bày bàn cúng tế rồi nói với các tướng rằng:"Ta mất một con trưởng và một cháu yêu, cũng không thương là mấy, chỉ thương khóc Ðiển Vi mà thôi".



Được sửa bởi ĐiếmChúa ngày Tue Jun 08, 2010 4:15 pm; sửa lần 1.

ĐiếmChúa

ĐiếmChúa
 Búa Đá Đôi

nhắc đên Tam Quốc Diễn Nghĩa, ko ai quên được Khương Duy tài nghệ vẹn toàn Tiểu sử danh tướng thời Tam Quốc 853731

Khương Duy

Khương Duy (姜維, Wade-Giles: Chiang Wei, 204-264), là một tướng và sau này là thừa tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Thân thế

Khương Duy tự là Bá Ước (伯約), người huyện Ký, Thiên Thuỷ[1].

Cha ông là Khương Quýnh từng làm chức Công tào trong quận. Khi người Nhung và người Khương chống lại nhà Ngụy, Khương Quýnh bảo vệ cho thái thú và bị tử trận. Vì vậy nhà Ngụy phong cho ông làm chức Trung lang.

Cha mất sớm, Khương Duy sống với mẹ, say mê Kinh học của Trịnh Huyền, làm chức Thượng kê duyên (ghi chép) trong quận, sau đó ông được làm tùng sự.

Hàng Thục

Năm 228, Thừa tướng nhà Thục Hán là Gia Cát Lượng xuất quân bắc phạt, ra Kỳ Sơn lần thứ nhất. Thái thú Thiên Thuỷ là Mã Tuân dẫn ông cùng Lương Tự, Doãn Thưởng, Lương Kiều và thứ sử Ung châu là Quách Hoài đi tuần các nơi.

Nghe tin quân Thục đến Kỳ Sơn, Quách Hoài trở về Thượng Khuê phòng bị. Mã Tuân một mình ở lại Ký huyện xa xôi phía tây, thế cô, có ý lo sợ. Khương Duy khuyên Tuân về phòng thủ Ký huyện nhưng Tuân không nghe và có ý nghi ngờ Khương Duy, nói rằng:

Bọn các ngươi đều không đáng tin cậy!

Rồi Tuân nhân đêm tối bỏ chạy về Thượng Khuê với Quách Hoài. Khương Duy sau mới phát hiện ra, bèn chạy theo, nhưng đến nơi thì thành Thượng Khuê đóng cửa, không cho ông vào. Ông quay trở về Ký huyện thì Ký huyện cũng đóng cửa ngăn ông. Ông bèn chạy sang đầu hàng Gia Cát Lượng.

Thấy ông lại hàng, Gia Cát Lượng rất mừng. Nhưng sau đó Mã Tốc để mất Nhai Đình nên quân Thục phải triệt thoái. Khương Duy theo quân Thục về nước và lạc mất mẹ.

Gia Cát mến tài ông, phong làm Thương tào duyện, Phụng Nghĩa tướng quân, rồi Đan Dương đình hầu khi ông mới 27 tuổi (230). Trong thư gửi Trương Duệ, Gia Cát khen ngợi tài năng của ông:

”Khương Bá Ước là người trung thành, cần cù, suy nghĩ chín chắn… Người này đích thực là nhân vật xuất chúng về quân sự... Cái quý nhất là trong lòng anh ta vẫn còn nhà Hán...”

Trong thời gian Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Tào Ngụy những lần sau đó, Khương Duy đều tham gia chiến trận.

Đánh Ngụy

Năm 234, Gia Cát Lượng mất. Khương Duy được giao trọng trách giữ việc quân sự. Ông trở về Thành Đô nhận chức Tả giám quân, Phù Hán tướng quân, Bình Tương hầu. Trên thực tế, ông vẫn ở dưới quyền Tưởng Uyển.

Năm 238, Uyển được phong làm Đại tư mã thì Khương Duy được phong làm Tư mã.

Năm 243, ông lại được phong làm Trấn tây đại tướng quân, kiêm nhiệm thứ sử Kinh châu.
[sửa] Lần thứ nhất

Năm 247, sau khi Tưởng Uyển mất, Phí Vĩ lên làm Thừa tướng, ông được phong làm Vệ tướng quân.

Năm đó các tộc thiểu số ở Vấn Sơn và huyện Bình Khang nổi dậy, ông thống lĩnh quân mã đi đánh dẹp, bình định hai vùng. Cùng năm, ông mang quân giao chiến với các tướng Ngụy là Quách Hoài, Hạ Hầu Bá ở Thao Tây. Các thủ lĩnh bộ tộc Khương ra hàng Khương Duy, ông thu họ về với nước Thục.
[sửa] Lần thứ hai

Năm 249, ông mang quân đánh về phía tây nước Ngụy, đánh quận Tây Bình[2], kết giao với một loạt thủ lĩnh người Khương. Do hiểu rõ tập tục của người Khương, người Hồ, ông thường muốn dùng họ làm vây cánh để đánh Ngụy và xuất đại quân, nhưng Phí Vĩ theo đường lối ôn hòa, cho rằng chỉ nên giữ vững biên cương nên ngăn trở việc ông ra quân, chưa bao giờ giao cho ông đến 1 vạn quân.
[sửa] Lần thứ ba

Năm 253, Phí Vĩ mất, Khương Duy lên nắm quyền. Ông được tướng Ngụy là Hạ Hầu Bá theo về hàng vì mâu thuẫn với quyền thần họ Tư Mã. Theo lời kêu gọi của tướng Đông Ngô là Gia Cát Khác[3] ông dẫn vài vạn quân rời Thạch Dinh[4], bao vây Nam An. Đến Lạc Môn, vì thiếu lương nên ông phải rút về.
[sửa] Lần thứ tư

Tháng 6 năm 254, ông được giao toàn quyền quân sự trong ngoài. Nhân lúc nước Ngụy có việc quyền thần Tư Mã Sư phế Tào Phương lập Tào Mao, ông mang quân ra Lũng Tây. Tướng Ngụy là Lý Giản mang 2 huyện Địch Đạo và Đại Lý ra hàng Thục. Ông mang quân vây thành Tương Vũ, tướng Ngụy là Từ Chất ra đánh bị ông chém chết, quân Ngụy đại bại phải rút lui.

Khương Duy thừa thắng tiến lên, hạ được nhiều thành, cho dân chúng 3 huyện Địch Đạo, Hà Quan và Gián Thao nhập vào nước Thục rồi rút quân về.
[sửa] Lần thứ năm

Năm 255, ông cùng Hạ Hầu Bá xuất quân khỏi Địch Đạo, đánh thứ sử Ung châu của Ngụy là Vương Kinh ở Thao Tây. Vương Kinh bị đánh bại, mất hàng vạn quân, phải lui về cố thủ. Khương Duy bao vây Địch Đạo.

Sau đó tướng Ngụy là Trần Thái đến giải vây, ông bị hết lương phải rút quân về.
[sửa] Lần thứ sáu

Năm 256, Khương Duy được Lưu Thiện phong làm Đại tướng. Ông chỉnh đốn binh mã, ước định ngày giờ hội quân với Hồ Tế ở Thượng Khuê nhưng Hồ Tế không đến. Khương Duy giao chiến với Đặng Ngải ở Đoạn Cốc, quân Thục bị đánh bại, thương vong khá nhiều. Vì vậy dân chúng oán hận ông, các địa phương Lũng Tây cũng nhân đó nổi loạn.

Khương Duy dẫn quân về, xin chịu tội, tự giáng chức Thừa tướng như Gia Cát Lượng từng làm khi mất Nhai Đình trước kia để lập công chuộc tội. Lưu Thiện chuẩn y giáng ông làm Hậu tướng quân, lo việc Đại tướng quân.
[sửa] Lần thứ bảy

Năm 257, tướng Ngụy là Gia Cát Đản phản đối quyền thần Tư Mã Chiêu, làm phản ở Hoài Nam. Khương Duy nhân cơ hội đó mang quân đánh Ngụy, từ lạc Cốc đến Đạt Thẩm Lĩnh. Lúc đó ở Trường Thành của nước Ngụy có nhiều lương thảo nhưng ít quân bảo vệ. Nghe tin ông tiến đến, quân Ngụy bỏ chạy.

Tướng Ngụy là Tư Mã Vọng mang quân đến giao chiến, Đặng Ngải cũng xuất quân từ Lũng Hữu đến Trường Thành. Khương Duy thúc quân tiến đánh. Ông dựa vào sườn núi cắm trại. Tư Mã Vọng và Đặng Ngải cố thủ ở sông Vị Thuỷ, dù ông khiêu chiến nhiều lần nhưng quân Ngụy không ra.

Sang năm 258, có tin Gia Cát Đản đã thất bại truyền tới mà quân Ngụy vẫn phòng thủ vững, ông rút quân về Thành Đô, được phục chức Đại tướng quân.
[sửa] Lần thứ tám

Khương Duy nghiên cứu địa thế nước Thục, đề ra sách lược mới là “liễm binh tụ cốc” (thu quân tập hợp lương thảo), tức là phòng thủ, thu hết lương thảo vào Hán Thành và Lạc Thành khiến quân địch không có lương, nhân thời cơ quân địch vào sâu nội địa để tập kích, quấy rối. Khi quân địch đi xa thiếu lương sẽ nguy cấp và quân Thục sẽ đồng thời phản công.

Năm 262, Khương Duy mang quân ra khỏi Hán Thành đánh Ngụy, bị Đặng Ngải đánh bại, phải lui quân về Đạp Trung[5].

Khi đó trong triều đình, Hậu chủ Lưu Thiện tin dùng hoạn quan Hoàng Hạo, bỏ việc chính sự. Khương Duy rất bất mãn, muốn xin Lưu Thiện giết Hạo không được. Lưu Thiện lại nói việc đó với Hạo và bắt Hạo xin lỗi ông. Ông lo rằng Hạo sẽ trả thù, nên xin ra trồng lúa ở Đạp Trung.

Tận trung với Thục Hán

Lần thứ 9 Khương Duy đương đầu với quân Ngụy không phải là đánh vào đất Ngụy mà ông chống cuộc tây tiến của quân Ngụy. Đây cũng là cuộc chiến cuối cùng của Khương Duy.
[sửa] Chống Chung Hội

Năm 263, quyền thần Tư Mã Chiêu sau khi dẹp bỏ hầu hết các lực lượng chống đối bèn tính việc đánh Thục, sai Chung Hội và Đặng Ngải chia đường tây tiến.

Khương Duy ở Đạp Trung được tin, bèn viết biểu về triều, đề nghị Lưu Thiện điều động Trương Dực, Liêu Hóa bảo vệ Dương An và Âm Bình. Nhưng Lưu Thiện tin theo Hoàng Hạo, không nghe theo những tờ thư của ông, nên quân Thục không được điều động đi phòng thủ.

Đến khi Đặng Ngải sắp kéo đến Đạp Trung, Chung Hội sắp tiến vào Lạc Cốc, triều đình Thục Hán mới cho Trương Dực, Đổng Quyết dẫn quân tới Dương An lập trại tiếp ứng.

Liêu Hóa tiến đến Âm Bình, nghe tin tướng Ngụy là Gia Cát Tự đến Đình Uy, nên dừng lại chờ đón đánh.

Khương Duy nghe tin 2 cánh đại quân Chung Hội, Đặng Ngải tiến vào, bèn lui về phía đông, trên đường rút lui ông bị Đặng Ngải truy kích. Lúc đó Gia Cát Tự cũng chiếm được Vũ Đô, đến gần Âm Bình, cắt đường rút lui của ông. Ông bị dồn vào Khổng U Cốc[6]. Ông dùng mưu lừa Gia Cát Tự, đốt đầu phía bắc cầu Âm Bình, Tự vội chạy qua phía bắc để chặn, ông bèn mau chóng qua cầu mà sang.

Khương Duy gặp viện binh của Liêu Hóa. Ông lệnh cho Liêu Hóa ở lại Âm Bình chống quân Ngụy, còn mình mang quân ra đánh Chung Hội.

Hội tấn công dữ dội vào Hán Trung và Lạc Thành. Tướng giữ ải Dương Quan là Tưởng Thư đầu hàng, để mặc phó tướng Phó Thiêm tử trận. Hội tấn công Lạc Thành không hạ được, nhưng lại nghe tin một cánh quân của mình đã chiếm được Quan Khẩu nên theo đường đó tiến vào.

Khương Duy, Liêu Hóa bỏ Âm Bình rút lui, gặp Đổng Quyết và Trương Dực vừa kéo đến Hán Thọ. Ông cùng các tướng họp quân rút về Kiếm Các cầm cự với Chung Hội.

Chung Hội viết thư dụ hàng Khương Duy. Ông không trả lời mà lập trại bố phòng. Hai bên giữ nhau khá lâu, quân Ngụy đi đánh đường xa, vận chuyển lương thảo khó khăn nên Hội bị thiếu lương. Chung Hội lo sợ xảy ra bất trắc nên toan tính chuyện rút quân.

Nhưng trong khi Chung Hội bắt đầu nản chí thì Đặng Ngải lại đi tắt theo đường núi Âm Bình, vượt qua Cảnh Cốc, đánh bại tướng Thục là Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc rồi tiến thẳng vào Thành Đô. Hậu chủ Lưu Thiện bó tay ra hàng Đặng Ngải.

Khương Duy sai dò tin tức ở Thành Đô, thấy tin đồn lung tung. Vừa có tin Lưu Thiện cố thủ ở Thành Đô, lại có tin Lưu Thiện chạy về Kiến Ninh (Jian Ning)phía nam, lại có tin khác là chạy sang Đông Ngô. Do tin tức không chuẩn, ông bèn lui quân từ Quảng Hán về Thê Huyện. Trên đường đi vừa nghe ngóng tin tức vừa tính việc quân.
[sửa] Trá hàng Chung Hội

Không lâu sau, có thư của Lưu Thiện ở chỗ Đặng Ngải gửi tới, lệnh cho ông đầu hàng. Khương Duy đau lòng đành phải phụng chiếu. Các tướng sĩ dưới quyền ông vô cùng tức giận, lấy gươm chém xuống đá mà than vãn vì Lưu Thiện không đánh địch đã hàng. Biết Chung Hội và Đặng Ngải có mâu thuẫn, tranh công đánh Thục, ông quyết định đến trá hàng Chung Hội để tìm cơ hội khôi phục nước Thục.

Chung Hội hỏi ông:

Sao bây giờ ông mới đến hàng?

Ông chảy nước mắt đáp:

Hôm nay đến hàng là sớm rồi!

Chung Hội mến tài và lòng trung của ông, nên hậu đãi ông và các tướng Thục. Hội cho ông đi cùng xe, ngồi cùng bàn ăn. Hội rất khâm phục tài Khương Duy, tâm sự với Trưởng sử Đỗ Dự rằng nhân tài nước Ngụy như Gia Cát Đản, Hạ Hầu Huyền không bằng ông.

Chung Hội tranh công đánh Thục với Đặng Ngải, vu cho Ngải làm phản, sai Vệ Quán bắt Ngải, định nhân Ngải giết Quán thì Hội sẽ có cớ đánh. Nhưng Vệ Quán tự dùng mưu bắt sống được cha con Đặng Ngải nộp cho Chung Hội. Hội sai giải Ngải về Lạc Dương rồi cùng Khương Duy tiến vào Thành Đô.

Biết Chung Hội có ý phản Tư Mã Chiêu để tranh giành thiên hạ, Khương Duy lấy gương Văn Chủng, Hàn Tín ra nói với Hội để kích động. Chung Hội nghe theo, quyết định làm phản.

Chung Hội muốn giao cho ông 5 vạn quân tiến ra Tà Cốc, còn mình dẫn đại quân theo sau để đánh vào Lạc Dương tranh thiên hạ với họ Tư Mã. Thế nhưng Tư Mã Chiêu cũng trù liệu Hội làm phản nên đã dồn đại quân đến Tràng An, sai Giả Sung lén đến Tà Cốc, đóng quân ở Lạc Thành. Hội biết mình đã bị Chiêu nghi ngờ, bèn mượn cớ Ngụy thái hậu họ Quách có thư sai mình đánh quyền thần Tư Mã Chiêu để ra lệnh các tướng phản lại Chiêu. Các tướng không nghe theo, Chung Hội liền sai giam cả lại, rồi cho những người thân tín nắm binh quyền.

Khương Duy thấy thời cơ đã tới, ông kích động cho Hội giết các tướng Ngụy, rồi sẽ tìm cơ hội giết chết Chung Hội để khôi phục nhà Hán. Ông viết mật thư gửi cho Lưu Thiện nói rằng:

"Bệ hạ hãy nhẫn nhục ít ngày, thần muốn làm xã tắc biến nguy thành an".

Trong các tướng bị giam, Hồ Liệt có con là Hồ Uyên đang ở ngoài. Uyên được cha mật báo cho biết việc làm của Chung Hội, bèn ngầm dẫn quân bản bộ cùng Vệ Quán đánh vào Thành Đô, cứu các tướng Ngụy ra. Hồ Liệt trong ngục cũng phao tin rằng Chung Hội chỉ tin tưởng Khương Duy và định chôn sống tất cả quân Ngụy. Vì vậy các tướng sĩ nước Ngụy đều nổi giận, tập hợp binh mã đánh Chung Hội. Khương Duy và Chung Hội không chống nổi cuộc nổi dậy của các tướng Ngụy nên đều bị chết ở Thành Đô đầu năm 264. Ông bị mổ bụng và mọi người thấy quả mật to lớn khác thường.

Khương Duy mất năm 60 tuổi. Họ hàng ông sau đó cũng bị giết.


Nhận định thêm

Khương Duy xuất thân là tướng nước Ngụy nhưng gần như cả cuộc đời ông phục vụ nước Thục. Gia Cát Lượng đã nhìn nhận đúng về lòng trung thành với nhà Hán của Khương Duy ngay trong thời gian đầu.

Khương Duy có tài kiêm văn võ, có chí lập công danh, cả đời ông sống cần cù tiết kiệm – giống như phong cách của Gia Cát Lượng. Người đồng liêu của ông là Khước Chính – đã theo Hậu chủ Lưu Thiện sang hàng Ngụy - có nhân định về ông như sau:

"Khương Bá Ước nắm quyền thượng tướng, dưới một người trên vạn người, vậy mà nhà cửa ông lại sơ sài cũ nát, trong nhà cũng không có vật gì quý giá. Ông không có vợ bé, không có thê thiếp thân cận, hậu đường không có đàn sáo hát ca, quần áo chỉ cần đủ mặc, xe ngựa chỉ cần chỉnh tề, không hề có yêu cầu cao xa gì. Việc ăn uống của ông cũng rất hạn chế, không thừa không thiếu là được. Triều đình cung cấp vật dụng tiền nong cho ông, ông liền phân phát hết... Mọi người cho rằng Khương Duy đầu hàng hai nơi, mình thì bị giết, tông tộc bị diệt, vì vậy chỉ trích ông mà không suy xét các mặt khác của ông. Đó chính là theo nghĩa “khen chê” của Kinh Xuân Thu mà nêu cao. Con người Khương Duy học không biết mỏi, tiết kiệm hết mình, thật đáng cho muôn đời học tập"[8].

Bàn về cái chết của ông, đời sau có cách nhìn nhận khác nhau. Tôn Thịnh tỏ ý bài bác, cho rằng Khương Duy là bất trung, bất nghĩa[9], và có thêm nhận xét:

Tiến không được, lùi không thống lĩnh được chư tướng, không bảo vệ được vua Thục, kế sách xây dựng đất nước đi ngược với thời thế, làm nước hèn yếu[10].

Các sử gia Trung Quốc hiện đại coi nhận định của Tôn Thịnh là hoàn toàn sai lầm. Khương Duy phải sang hàng Thục vì bị ngăn đường về nhà, buộc phải đầu hàng nước địch, không thể coi là bất nghĩa; nước mất nhưng không chết theo ngay, một là vì vâng lệnh Hậu chủ Lưu Thiện, hai là vì mưu kế khôi phục, không thể nói là ông không trung[11].

Bùi Tùng Chi có ý kiến khác về cái chết của ông:

Lúc đó Chung Hội đã đến Kiếm Các, Khương Duy và các tướng chống trả quyết liệt... Hội không có cách nào tiến, đã chuẩn bị lui quân, thiếu chút nữa thì Khương Duy lập được đại công bảo vệ nước Thục. Không ngờ Đặng Ngải ngầm đi đường Âm Bình,... Thành Đô tự vỡ… Nếu Khương Duy về chi viện cho Thành Đô, Chung Hội sẽ tập kích đằng sau. Vì vậy nếu trách Khương Duy không bảo vệ được Thục chủ, thật là làm khó cho người… Sau đó Chung Hội… mưu làm việc lớn, giao binh lính cho Khương Duy, dùng ông làm tiền khu. Nếu sự việc không bị vỡ lở, việc ấy thành công… thì khôi phục lại Thục Hán đâu phải chuyện khó... Ta không nên vì sự việc không tiến triển như dự kiến mà cho rằng mưu Khương Duy không tốt. Thử nghĩ, nếu xưa kia Điền Đan định kế xong nhưng cơ hội không tốt mà không thành công thì lẽ nào lại nói Điền Đan ngu xuẩn, đần độn hay sao?[12].

Các sử gia Trung Quốc coi những ý kiến của Bùi Tùng Chi và Khước Chính về ông là “tận tình tận lý, đủ thuyết phục người”[13]. Cái chết của ông được cảm thán là “rất đáng tiếc, rất đáng thương”[14].

ĐiếmChúa

ĐiếmChúa
 Búa Đá Đôi

ko thể thiếu nữa là danh tướng Đông Ngô - Chu Du đá lông nheo với trận Xích Bích huyền thoại, với câu nói nổi tiêng: "trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng" cười lăn lộn

Chu Du

Chu Du (chữ Hán: 周瑜; 175 - 210) , tên tự là Công Cẩn (公瑾), là danh tướng của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong bộ truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của nhà văn La Quán Trung có viết rằng do Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi là Mỹ Chu Lang (美周郎). Ông là một nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại Đô Đốc Thủy Quân (Grand Admiral), nên được gọi là Chu Đô Đốc. Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó.

Thời trẻ

Chu Du sinh ra và lớn lên tại huyện Thư, quận Lư Giang. Lư Giang thuộc vùng Hoài Nam của Trung Nguyên, nhưng rất gần đất Ngô-Việt, ngày nay là Thư Thành, An Huy thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Gia đình Chu Du đều là danh sĩ, cha ông là Chu Dị từng làm quan huyện Lạc Dương, ông nội ông là Chu Cảnh và chú là Chu Trung từng làm quan Thái úy. Một người chú của Chu Du là Chu Thượng có thời gian làm Thái thú Đan Dương.

Chu Du thời trẻ chơi với Tôn Sách, con của Tôn Kiên, hai người thân nhau như anh em. Khi Tôn Kiên bị giết trong cuộc chiến với Lưu Biểu, họ Tôn một thời gian dài chịu sự khống chế của Viên Thuật. Năm 20 tuổi, Tôn Sách bắt đầu khởi binh ở Lịch Dương, chinh phạt Giang Đông. Chu Du đem binh lương giúp Tôn Sách, và sau đó theo Tôn Sách đánh dẹp khắp nơi, trở thành khai quốc công thần.

Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Hoãn Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Công. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều.

Tham mưu

Năm 200, Tôn Sách bị thích khách bắn bị thương rồi chết (nhưng Tam Quốc Diễn Nghĩa lại ghi rằng Tôn Sách giết đạo sĩ Vu Cát nên bị nguyền rủa mà chết). Tam Quốc Diễn Nghĩa cũng ghi rằng "Tôn Sách dặn Tôn Quyền chuyện đối nội thì hỏi Trương Chiêu, đối ngoại hỏi Công Cẩn". Chu Du chuyển từ thành Ba Khâu về Ngô Quận để giúp đỡ Tôn Quyền, lúc ấy còn nhỏ.

Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu và đòi Tôn Quyền đưa con trai đến làm con tin. Trương Chiêu sợ có chiến tranh nên không dám quyết định, nhưng Tôn Quyền nghe lời Chu Du và cương quyết từ chối. Tào Tháo cho một người tên là Tưởng Cán, là người quen của Chu Du đến dụ ông, nhưng Tưởng Cán về báo rằng "Chu Du là người có chí hướng cao vời, không thể thuyết phục được".

Năm 208, Lưu Bị thua chạy khỏi đất Trung Nguyên. Lưu Biểu chết bệnh, con là Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, lấy danh nghĩa của Hán đế để yêu cầu Tôn Quyền đầu hàng. Lưu Bị cũng cho sứ giả cầu cứu. Các quan nước Ngô chia làm 2 phe, phe chủ hàng do Trương Chiêu cầm đầu, phe chủ chiến do Chu Du và Lỗ Túc đứng đầu. Chu Du phân tích cho Tôn Quyền tình hình chiến lược như sau:

* Địa thế: Đất Ngô có sông bao bọc. Tào Tháo không có thủy quân giỏi.
* Tình thế: Tào Tháo chưa bình định xong vùng Tây Lương, không thể ở lâu.
* Thời điểm: Đang là mùa đông, đất Ngô khí hậu ẩm ướt, quân phương Bắc sẽ sinh bệnh.

Tôn Quyền cho Chu Du và Trình Phổ đi hợp quân với Lưu Bị. Quân Tào đóng ở bờ bắc sông Xích Bích, quân Ngô đóng ở bờ nam.

Trận Xích Bích

Quân của Chu Du ít hơn nhiều, nhưng lại chiếm ưu thế về thủy chiến, Tào Tháo không thể qua sông nên đóng trại ở bờ bắc để huấn luyện quân. Ông ta dùng xích sắt nối thuyền lớn lại theo lối của kị binh Liên Hoàn Mã, gọi đó là "Liên Hoàn Thuyền". Hoàng Cái giả đầu hàng Tào Tháo, và vào một đêm có gió đông nam, quân Ngô dùng hỏa công đánh trại của Tào Tháo, quân Tào thua to bỏ chạy. Do bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đuổi, Tào Tháo cho Tào Nhân giữ Nam Quận, rồi rút về phương bắc. Trận Xích Bích đưa tên tuổi Chu Du nổi lên, và được liệt vào hàng những tướng giỏi của lịch sử Trung Quốc.

Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung viết để ca ngợi nhà Thục Hán, nên "thần thánh hóa" Gia Cát Lượng, biến Chu Du thành người có tài năng kém Khổng Minh. Những chuyện như "thuyền cỏ mượn tên" được các nhà sử học sau này cho là cực kỳ hoang đường; bởi vì trong đêm, thủy chiến thường dùng tên lửa tẩm dầu để bắn nhau, chỉ cần một mũi tên trúng đích là thuyền bắt lửa, ánh sáng sẽ biến nó thành mục tiêu. Trong cuốn "Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện" của tác giả người Trung Quốc Trần Văn Đức có viết: "La Quán Trung là một thư sinh chưa bao giờ biết đến chiến trận, nên viết có nhiều chỗ hoang đường".

Chết trẻ

Chu Du tiến đánh Nam Quận, trong lúc đánh thành thì bị tên bắn trọng thương. Tào Nhân nghe tin thì kéo ra khỏi thành đánh, nhưng Chu Du dù bị thương vẫn huy động quân sĩ đánh bại Tào Nhân. Nhưng mũi tên có độc, vết thương của Chu Du không thể chữa khỏi, đến năm 210 thì chết, khi đó 36 tuổi. Người kế tục ông làm quân sư cho Tôn Quyền là Lỗ Túc.

Chu Du là người yêu âm nhạc, lễ phép khiêm tốn, nhưng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông bị mô tả như một đứa trẻ ngô nghê và nóng tính, bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần đến chết. Nhà văn còn viết một câu khá nổi tiếng rằng trước khi chết Chu Du phẫn uất mà than: "Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?". Trong bộ "Tướng Soái Trung Quốc Toàn Truyện" của các tác giả Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Tuyết và Dương Hiệu Xuân có ghi: "đó là lời lẽ của nhà văn, hoàn toàn không đáng tin". La Quán Trung là người đời sau, không có sách sử nào ghi như vậy, làm sao ông ta biết được là Chu Du nói gì trước khi chết? La Quán Trung là người "trù dập các tướng lĩnh Ngô, Ngụy và biến các tướng Thục thành thần, nếu các tướng Thục giỏi như vậy, sao cứ thua mãi?". Nhiều nhà phân tích cho rằng Khổng Minh có tài trị nước và vạch định sách lược, nhưng về chiến thuật và chiến trận thì kém, bằng chứng là từ thành Hán Trung ra đánh Trường An, chỉ cách nhau mấy dặm, nhưng chưa bao giờ thấy được mặt thành Trường An vì cứ bị thua giữa đường. (Mã Siêu chỉ đánh 1 trận là chiếm được Trường An).

Chu Du có công cực lớn trong việc giúp nhà họ Tôn lập nên Đông Ngô, là khai quốc đại công thần, từng theo phò tá cho cả 3 vị chủ tướng đầu tiên của Ngô.

ĐiếmChúa

ĐiếmChúa
 Búa Đá Đôi

bổ sung về Triệu Vân trong trận Trường Bản:

Tiểu sử danh tướng thời Tam Quốc 400px-Changban02

Triệu Vân lạc cả gia quyến Huyền Đức, bèn đi tìm, cứu được Cam phu nhân và Mi Chúc, giết tướng của Tào Tháo là Thuần Vu Đạo, cướp được gươm báu của Tào Tháo. Sau đó gặp Mi phi nhân, được bà đưa con của Lưu Bị là Lưu Thiện cho, rồi sau đó Mi phu nhân gieo mình xuống giếng chết. Sau đó Triệu Vân tả xung hữu đột giữa quân Tào, đi đến đâu người dạt ra đến đó, Tào Tháo thấy vậy bèn ra lệnh chỉ được bắt sống, không được bắn chết. Trong trận này, Triệu Vân mang được ấu chúa ra khỏi trận, chém gãy 2 lá cờ to, cướp 3 ngọn giáo, cướp được gươm Thanh Công của Tào Tháo, trước sau giết được hơn 50 danh tướng của quân Tào.

Triệu Vân thoát được đến cầu Trường Bản, nhờ Trương Phi cứu. Vân đem con trai Lưu Bị đến, Lưu Bị đỡ lấy rồi ném phịch xuống đất rồi bảo vì thằng nhỏ này mà ta suýt mất 1 đại tướng.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Tôn Quyền


Tôn Quyền (182 - 252), tự Trọng Mưu, người Phú Xuân, Ngô Quận (nay là Phú Dương, Chiết Giang). Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc.
Cuối đời Đông Hán, sau khi cha Tôn Quyền là Tôn Kiên, anh ông là Tôn Sách đã chiếm cứ 6 quận Giang Đông làm căn cứ kình chống nhau giữa các phe phái quân phiệt. Tôn Kiên chết, không lâu sau Tôn Sách cũng bị kẻ có tư thù giết hại trong một cuộc đi săn. Trước khi chết, Tôn Sách nói với bọn mưu thần Trương Chiêu: Các ngươi nên gắng sức giúp em ta

Tôn Quyền mới 18 tuổi đã nối chức vụ của anh mình, trở thành người thống trị tối cao ở tỉnh Giang Đông. Do Tôn Quyền có tài, lại chú ý đoàn kết lực lượng các phe, nên nhanh chóng dành được uy vọng, khiến cục thế Đông Ngô ổn định trong thời hỗn loạn.

Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc.

Năm 208, Tôn Quyền nghe nói Tào Tháo tiến vào Kinh Châu, lập tức phái Lỗ Túc lấy danh nghĩa viếng Lưu Biểu bị bệnh vừa mất để dò xét thực hư. Sau đó Lỗ Túc tìm gặp Lưu Bị bàn việc liên hiệp chống Tào.

Trong khi nội bộ Đông Ngô thảo luận, có người sợ uy lực Tào Tháo, đề nghị hàng Tào, bị bọn Lỗ Túc, Chu Du kiên quyết phản đối. Họ kiên trì chủ trương chống Tào, do đó củng cố quyết tâm của Tôn Quyền. Ông rút gươm báu chém sạt một góc án thư, lớn tiếng nói: "Ai còn bàn đầu hàng Tào Tháo thì kết cục như cái án này!". Kết quả trong trận Xích Bích, liên minh Tôn-Lưu đại thắng quân Tào, củng cố nên thống trị của Tôn Quyền ở Giang Đông. Mùa hạ năm 219, Tôn Quyền thừa lúc Quan Vũ dốc quân Kinh Châu đánh Tào Nguỵ ở phía Bắc giành được thắng lợi nhỏ nhặt, phái Lã Mông dẫn 2 vạn quân kéo đến đánh lấy Kinh Châu.

Tháng 7 năm 221, Tôn Quyền lại phái một tướng lĩnh không tên tuổi là Lục Tốn đến đánh chặn đại quân Lưu Bị. Hai bên giằng co 7, 8 tháng. Lục Tốn dùng chiến thuật "Thành cao hào sâu", không chịu ra đấu, dùng hoả công đánh quân Thục ở Di Lăng, giành được đại thắng. Điều này phản ảnh tài dùng người của Tôn Quyền.

Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô, sau dời đô đến Kiến Nghiệp (nay là thành phố Nam Kinh, Giang Tô).

Tôn Quyền đối nội thống trị rất nghiêm khắc, đánh thuế nhiều và nặng. Có người khuyên ông: "Ra uy với kẻ tiểu nhân cần dùng hình phạt nặng, nếu đơn độc ngồi giữ Giang Đông thì binh lực hiện có cũng đủ dùng rồi, nhưng đơn độc ngồi giữ Giang Đông không khỏi là hạn hẹp, vẫn cần điều binh trước". Do đó, Tôn Quyền hết sức phát triển xuống dải đất Đông Nam. Để mở mang miền ven. Năm 230, Tôn Quyền phái đội thuyền người, do tướng quân Vệ Ôn và Gia Cát Trực suất lĩnh ra biển, đến Di Châu (nay là Đài Loan). Đó là sự ghi chép sớm nhất, minh xác nhất trong văn hiến hiện có liên quan đến việc qua lại giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan. Tôn Quyền đem quân tiến về hướng Đông Nam, thúc đẩy việc mở mang một dải đất khu vực này và thực hiện dung hợp dân tộc. Tôn Quyền đã từng sai thứ sử Lục Dận sang Việt Nam để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.
Tài năng chính trị của ông thậm chí Tào Tháo cũng phải khen ngợi, tuy rằng Tôn Sách anh của Tôn Quyền cũng là một người tài giỏi gần như vẹn toàn nhưng Tào Tháo không hề xem trọng, ông từng khen "Sinh con nên như Tôn Trọng Mưu".

Năm 252, Tôn Quyền qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được truy tôn là Ngô Đại Đế.
Ắt hẳn đọc qua Tam Quốc, ai cũng đã tự mình chọn lấy cho mình 1 hình tượng nhân vật anh hùng nào đó, thật đẹp, thật vĩ đại để mà tôn thờ, để mà noi gương, học tập. vậy tại sao chúng ta lại không chọn Tôn Quyền?

Tôn Quyền là một bậc minh quân, biết dùng người tài, phải tự mình lo việc triều chính lúc 18 tuổi (độ tuổi đó chúng ta còn đang học 12, tài chính hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ, ai có bản lãnh đoàn kết lực lượng các quan văn võ, chư hầu khi nước vừa mất vua như Tôn Quyền), không như Tào Tháo luôn nghi ngờ những người xung quanh. Câu nói của Tào Tháo “thà ta phụ người chứ đừng để người phụ ta” phải chăng đã vô hình trung làm cho các con của ông giành giật ngôi báu không nể tình cốt nhục, Ngay cả mộ của mình, Tào Tháo phải giấu thật kỹ để tránh người đời sau ganh ghét đập phá. Lưu bị thì nhu nhược, cả cuộc đời xây dựng lại Hán nghiệp của ông chỉ nhờ vào người nhà (Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long) và quân sư Khổng Minh.



Được sửa bởi McCartney ngày Tue Jun 08, 2010 5:27 pm; sửa lần 1.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Tôn Sách

Tôn Sách (175 - 200) là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là con trai trưởng của Tôn Kiên, người đã bị giết chết trong một trận đánh khi Tôn Sách mới 16 tuổi. Tôn Sách sau này rời bỏ khỏi người bạn đồng thời có thể coi là chủ cũ của cha mình là Viên Thuật để tiến về vùng đông nam Trung Quốc nhằm xây dựng cơ sở quyền lực của mình tại đây. Với sự giúp đỡ của một số người có khả năng, như Trương Chiêu và Chu Du, Tôn Sách đã có thể thiết lập nền tảng cho sự ra đời sau này của nhà nước Đông Ngô, mà tại đó em trai của ông là Tôn Quyền cuối cùng đã xưng đế.

Tam Quốc Chí miêu tả Tôn Sách là một người thông minh và luôn cười. Ông cũng là người rộng lượng và có đầu óc dễ tiếp thu, có khả năng sử dụng con người theo khả năng của họ.Sách sử viết: Kẻ sĩ nhìn thấy Tôn Sách, không ai không tận tâm, vui vẻ nhận cái chết. Một nhân vật cùng thời là Hứa Cống trong một bức thư gửi cho Hán Hiến Đế, đã so sánh Tôn Sách với Hạng Vũ, một mãnh tướng cuối thời kỳ nhà Tần. Do Hạng Vũ thường được gọi là Sở Bá Vương nên Tôn Sách vì thế mà còn được gọi là Tiểu Bá Vương trong văn hóa dân gian Trung Quốc.
Thiếu thời và sự nghiệp
Sinh năm 175 tại Ngô Quận, Phú Xuân. Tôn Sách là con trai cả trong số 4 (có thể là 5) con trai của Tôn Kiên, một viên tướng trung thành với hoàng đế nhà Hán. Năm 190, một năm sau khi Hán Linh Đế chết, Đổng Trác tiếm quyền, đưa lên ngai vàng một vị vua bù nhìn là Hán Hiến Đế. Các lãnh chúa khu vực tại miền đông Trung Quốc sau đó đã lập ra liên minh chống Đổng Trác. Tôn Kiên đi theo Viên Thuật, một trong các thủ lĩnh của liên minh. Các cố gắng nhằm loại bỏ ĐổngTrác nhanh chóng bị thất bại và Trung Quốc bị chia cắt bởi một loạt các cuội nội chiến lớn. Năm sau, Viên Thuật cử Tôn Kiên đem quân đánh Lưu Biểu, thái thú Kinh Châu nhưng đã bị bộ hạ của Lưu Biểu là Hoàng Tổ đem quân mai phục và giết chết.

Tôn Sách đem thi hài cha mình về Khúc A, để chôn cất trước khi tiến về Đan Dương, tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh đang làm thái thú. Sau đó ông lập ra một đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là quá yếu ớt để ông có thể thiết lập quyền lực riêng của chính mình, vì thế năm 194 Tôn Sách lại theo Viên Thuật. Viên Thuật rất có ấn tượng về Tôn Sách và thường than vãn rằng ông không có người con trai nào được như Tôn Sách. Ông này cũng trao lại các đơn vị quân đội trước đây thuộc quyền Tôn Kiên cho Tôn Sách.

Ban đầu, Viên Thuật hứa sẽ cho Tôn Sách làm thái thú Cửu Giang nhưng cuối cùng lại giao quyền hành này cho Trần Kỷ. Sau đó, khi Viên Thuật bị từ chối khi muốn vay một lượng lương thực lớn từ thái thú Lư Giang là Lục Khang thì ông ta đã sai Tôn Sách tấn công Lư Giang, hứa sẽ cho Tôn Sách làm thái thú Lư Giang nếu ông thành công. Tuy nhiên, khi Tôn Sách thắng lợi thì Viên Thuật một lần nữa lại quên lời và giao chức vụ này cho người khác mà chỉ cho ông làm Hoài Nghĩa hiệu úy. Quá thất vọng, Tôn Sách đã dự kiến việc rời bỏ Viên Thuật.

Trong khi đó, Lưu Do, được hoàng đế nhà Hán bổ nhiệm làm thái thú Dương Châu, đã chiếm Khúc A do nơi đóng bản doanh cũ là đã bị Viên Thuật chiếm giữ. Ông này sau đó đã buộc Ngô Cảnh phải lui về phía tây, dọc theo sông Dương Tử tới Lịch Dương, ngày nay là huyện Hòa, An Huy). Tuy nhiên, Viên Thuật cho rằng mình mới là thái thú hợp pháp và sai Ngô Cảnh cùng anh họ của Tôn Sách là Tôn Bôn tấn công Lưu Do. Hơn một năm, họ không thể phá vỡ sự phòng ngự của Lưu Do. Tôn Sách yêu cầu được đem quân tới hỗ trợ họ.


Khởi đầu của vương quốc
Mặc dù Viên Thuật biết rằng Tôn Sách có ý định ra đi, nhưng ông ta tin rằng Tôn Sách không thể đánh bại Lưu Do. Vì thế ông ta đã đồng ý cho Tôn Sách đem khoảng 1.000 bộ binh cùng một lực lượng nhỏ kỵ binh đi. Cùng với vài trăm người tình nguyện theo mình, Tôn Sách tiến tới Lịch Dương, tại đây ông đã tăng cường được sức mạnh của mình lên tới trên 5.000 quân nhờ thu được nhiều hào kiệt vùng Giang Đông. Sau đó ông đã bắt đầu tấn công dọc theo sông Dương Tử và chiếm đóng vị trí chiến lược Ngưu Chử vào năm 195.

Hai đồng minh của Lưu Do sau đó từ Bành Thành và Hạ Bi kéo xuống phía nam để giúp Lưu Do. Tôn Sách quyết định tấn công một trong hai đoàn quân này do Trích Dung chỉ huy, ông này đóng quân tại Mạt Lăng. Sau khi bị thất bại trong mấy trận đầu, Trích Dung lui vào phòng ngự và từ chối giao đấu trên chiến trường. Tôn Sách đưa quân lên phía bắc và tấn công Tiết Lễ . Mặc dù Tiết Lễ nhanh chóng thua trận và bỏ chạy, nhưng bộ hạ của Lưu Do là Phàn Năng và những người khác đã tập hợp lực lượng của mình và tấn công lại tại Ngưu Chử. Quay về, Tôn Sách đánh bại Phàn Năng và giữ được Ngưu Chử. Sau đó ông lại tấn công Trích Dung. Tuy nhiên, ông bị dính tên vào đùi. Quay về Ngưu Chử, ông cho loan tin giả là đã bị giết chết trong trận đánh vừa qua. Trích Dung tin điều đó và đem quân tấn công. Tôn Sách lừa cho quân của Trích Dung vào ổ mai phục và tiêu diệt đội quân này. Khi Trích Dung biết rằng Tôn Sách còn sống thì ông ta lại càng tăng cường phòng ngự.

Tôn Sách sau đó tạm thời bỏ qua kế hoạch tấn công Trích Dung và tập trung lực lượng vào Khúc A. Sau khi toàn bộ khu vực xung quanh lần lượt bị Tôn Sách chiếm đóng thì Lưu Do đã bỏ thành và chạy về phía nam tới Dự Chương và sau đó chết tại đây. Do Tôn Sách giữ vững kỷ luật trong quân đội của mình nên ông đã thu được sự ủng hộ của người dân khu vực và thu được nhiều người có tài năng, như Trần Vũ, Chu Thái, Tưởng Khâm, Trương Chiêu, Trương Hoành và Lã Phạm v.v. Sau đó ông lấn sâu vào Dương Châu và chiếm Cối Kê, thái thú Hội Kê là Vương Lang phải bỏ chạy. Tôn Sách lấy Cối Kê làm căn cứ của mình và đánh bại đội quân thổ phỉ của Nghiêm Bạch Hổ ở Ngô Quận. Nghiêm Bạch Hổ sai em trai là Nghiêm Dư tới giảng hòa với Tôn Sách và chia đôi vùng Giang Đông, nhưng Tôn Sách không đồng ý và tự tay giết chết sứ giả. Do Nghiêm Dư là chiến binh dũng mãnh nhất trong số những người của Nghiêm Bạch Hổ, nên cái chết của ông này đã làm họ lo sợ và nhanh chóng bị đánh tan. Tôn Sách sau đó cử các bộ hạ thân tín tới quản lý Đan Dương và Dự Chương, từ đó ông đã chia một quận mới, gọi là Lư Lăng. Chiến dịch của ông, từ khi chiếm Ngưu Chử cho đến khi chiếm toàn bộ khu vực đông nam sông Dương Tử, chỉ mất chưa tới 1 năm. Ông sau đó đánh bại và nhận được sự phục vụ của Tổ Lãng , thái thú Đan Dương, và Thái Sử Từ, thủ lĩnh đám tàn quân của Lưu Do; ông cũng đã hàng phục được Hoa Hâm , một trong số các thủ lĩnh tàn quân của Lưu Do. Vì thế, ngoại trừ đội quân tuy rải rác nhưng còn đông của Nghiêm Bạch Hổ ra thì vùng đất phía nam sông Dương Tử về cơ bản đã được hòa bình.

Tuy nhiên, những người của bộ lạc Sơn Việt thì lại không dễ dàng như vậy. Để chống lại những cuộc nổi dậy liên tục của người Sơn Việt trong nhiều năm sau đó, Tôn Sách đã cho Hạ Tề làm chỉ huy một đội quân để chinh phục người Sơn Việt. Hạ Tề sau này trở thành một viên tướng giành được thắng lợi lớn, trên thực tế, việc Tôn Sách bổ nhiệm ông là bước đi đầu tiên rất quan trọng trong việc nhà nước Đông Ngô chinh phục các bộ lạc Sơn Việt này.


Cuộc sống sau đó
Năm 195, Viên Thuật tự xưng làm hoàng đế, hiệu là Trọng Thị. Sau khi bị Lã Bố đánh bại, Viên Thuật có gửi thư cho Tôn Sách để mượn quân. Trong thư gửi trả lời Viên Thuật, Tôn Sách đã cự tuyệt và cắt đứt mọi ràng buộc với ông này. Trong cố gắng nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Tôn Sách, một lãnh chúa mới nổi là Tào Tháo sau đó đã đề cử ông vào chức vụ Thảo nghịch tướng quân và tước phong là Ngô hầu. Năm 199, Viên Thuật ốm chết cùng với triều đại ngắn ngủi của mình. Em họ ông ta là Viên Dận lo sợ Tào Tháo và rời bỏ Thọ Xuân. Đem theo quan tài Viên Thuật và đội quân của ông này, Viên Dận đến Hoán Thành, để theo Lưu Huân . Do Lưu Huân không có đủ lương thực trong địa hạt của mình để nuôi thêm quân, nên ông ta đã dẫn quân về phía nam tới cướp bóc.

Tôn Sách đang trên đường đem quân tấn công Hoàng Tổ tại Hạ Khẩu thì nhận được tin. Ông quay lại và chiếm được Hoán Thành khi đó đã không được bảo vệ tốt, tiếp quản toàn bộ số quân cũ của Viên Thuật khoảng 30.000 người. Nghe tin căn cứ của mình đã mất, Lưu Huân chạy về phía tây và tìm kiếm sự hỗ trợ của Hoàng Tổ, ông này đã gửi 5.000 thủy quân thiện chiến tới giúp. Tôn Sách đánh bại Lưu Huân và ông ta phải chạy về phía bắc để theo Tào Tháo. Tôn Sách thu được trên 2.000 quân cùng 1.000 tàu thuyền của Lưu Huân và tiến quân đánh Hoàng Tổ. Mặc dù đã được tăng cường thêm quân từ phía Lưu Biểu, nhưng Hoàng Tổ đã thất bại cay đắng.

Tôn Sách vào năm 199 đã chiếm được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Do bị đe dọa ở phía bắc là Viên Thiệu nên chưa thể chia sẻ sự quan tâm của mình, vì thế Tào Tháo cố gắng tăng cường liên minh với Tôn Sách bằng cách gả cháu gái của mình cho em Tôn Sách là Tôn Khuông . Đến lượt mình, Tôn Sách cũng đồng ý gả con gái của Tôn Bôn cho con trai của Tào Tháo là Tào Chương.

Thái thú cũ của Ngô Quận là Hứa Cống đã từ lâu chống lại Tôn Sách. Hứa Cống gửi mật thư về cho Hán Hiến Đế, khuyên vua nên triệu hồi Tôn Sách về kinh do ông cảm nhận rằng Tôn Sách là một anh hùng có thể sánh với Hạng Vũ và là quá nguy hiểm để cho phép Tôn Sách chiếm giữ lãnh thổ. Tuy nhiên, bức mật thư đã bị các quan lại ưa Tôn Sách chặn lại, Tôn Sách mời Hứa Cống tới và giết chết. Những người trung thành với Hứa Cống sau đó chờ đợi cơ hội trả thù.

Năm 200, Tào Tháo đánh trận quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, dọc theo bờ sông Hoàng Hà, để kinh đô và căn cứ của ông ta tại Hứa Xương vào tình thế ít được bảo vệ. Người ta cho rằng Tôn Sách đã vạch ra kế hoạch tấn công Hứa Xương dưới ngọn cờ giải cứu Hán Hiến Đế, khi đó đang bị Tào Tháo kiểm soát gắt gao. Công việc chuẩn bị cho cuộc tấn công đang diễn ra thì Tôn Sách bị rơi vào nơi phục kích của 3 bộ hạ cũ của Hứa Cống trong một cuộc đi săn đơn độc. Một trong số ba người này đã kịp bắn một mũi tên trúng má Tôn Sách trước khi người của Tôn Sách kịp đến và giết chết những kẻ ám sát. Về cái chết của Tôn Sách có nhiều giả thiết khác nhau .Một kịch bản được chấp nhận nhiều nhất là ông ta chết ngay trong đêm đó.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Tôn Hạo


Tôn Hạo (242-284), hay Đông Ngô Mạt đế là vua cuối cùng của nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông có tự là Nguyên Tông ,tên gốc là Tôn Bành Tổ

Hôn quân
Tôn Hạo là cháu của Tôn Hưu. Khi Tôn Hưu lên ngôi thì Hạo được phong làm Ô Trình Hầu. Về sau, Tôn Hưu mất, các quan Đông Ngô cho Hạo là người sáng suốt nên đã lập lên làm vua.

Nhưng không ngờ Tôn Hạo lại là con người độc ác. Từ khi lên làm vua, ông rất dữ tợn, phung phí của cải, giết hại nhiều trung thần. Bọn Trương Bố khuyên can cũng bị giết cả ba họ. Tin dùng tên thị lang là Sầm Hồn khiến nhà nước Ngô bị nghiêng ngả chẳng khác gì Hậu Chủ Lưu Thiện tin dùng Hoàng Hạo bên nước Thục Hán.

Đối đáp với Giả Sung
Sau khi diệt được nhà Thục, Tấn Vũ đế Tư Mã Viêm đã sai đại tướng Đỗ Dự lĩnh quân đi đánh Ngô. Quân Ngô không chống nổi sức tấn công của đạo binh hùng hậu nhà Tấn, nhanh chóng bị thua trận.

Lúc bấy giờ Hạo hối lại thì không kịp nữa và muốn tự tử. Nhưng các quan khuyên ông nên bắt chước Hậu Chủ nhà Thục Hán là Lưu Thiền quy hàng Tào Ngụy. Hạo nghe lời, tự trói mình lại ra hàng Tấn. Tướng Tấn là Vương Tuấn mang Tôn Hạo về Lạc Dương nộp cho Tấn Vũ Đế.

Khi ra ngồi yến kiết Tư Mã Viêm, đại thần nhà Tấn là Giả Sung hỏi Hạo rằng:

Tôi nghe người phương nam thường hay khoét mắt lột da người ta, đó là hình pháp gì?
Hạo đáp ngay:

Làm bề tôi mà giết vua, những kẻ gian tà bất trung thì xử tội ấy
Sung nín lặng có ý hổ thẹn, vì chính Giả Sung làm thủ hạ đắc lực của họ Tư Mã, thời cha Tấn Vũ Đế là Tư Mã Chiêu làm quyền thần nhà Nguỵ, Sung từng sai người sát hại vua Tào Nguỵ là Tào Mao. Đối với họ Tư Mã, Giả Sung là khai quốc công thần nhưng theo tư tưởng phong kiến, Sung có "tội" với nhà Nguỵ. Giả Sung vốn định chê Tôn Hạo làm những điều luật tàn bạo mất lòng dân, nhưng ông nhớ đến việc làm đó của Sung nên mang ra để đối đáp lại rất cứng cỏi.

Tư Mã Viêm phong Tôn Hạo làm Quy Mệnh hầu. Về sau, Hạo mất vào năm Thái Khang thứ tư nhà Tấn (284), thọ 43 tuổi.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Cam Ninh


Cam Ninh (175-218) tự Hưng Bá là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng là 1 vị tướng gan dạ và dũng mãnh qua nhiều trận đánh nhưng nổi tiếng nhất là trận Hợp Phì năm 215 giữa Đông Ngô và Đại Ngụy.

Cam Ninh sinh năm 175 tại Lâm Giang thuộc Ba quận. khi còn trẻ ông là người thông hiểu về kinh sử, có sức mạnh hơn người, tính lại thích lãng du, thường chiêu tập bọn du đảng, lưng đeo chuông đồng, tung hoành khắp thiên hạ. Ai ai nghe tiếng chuông đều kinh hãi ù té bỏ chạy trốn. Ông còn lấy gấm Tây Xuyên làm buồm thuyền, vì thế người ta gọi là "giặc buồm gấm". Về sau, ông hối hận việc làm của mình nên cải tà quy chánh, dẫn thủ hạ đến đầu Lưu Biểu. Thấy Lưu Biểu không làm nổi việc lớn, Ninh muốn sang theo Ðông Ngô , nhưng lại bị Hoàng Tổ giữ lại ở Hạ Khẩu. Khi Đông Ngô tiến đánh Hạ Khẩu, Hoàng Tổ đã nhờ Cam Ninh bắn chết tướng Đông Ngô là Lăng Tháo mới giữ được thành nhưng về sau, Tổ lại bạc đãi Ninh. Viên Đô Ðốc của Hoàng Tổ là Tô Phi nhiều lần khuyên Hoàng Tổ trọng dụng Cam Ninh nhưng Hoàng Tổ cho Ninh chỉ là tên cướp biển nên coi khinh. Về sau, Cam Ninh đầu hàng Đông Ngô và đem quân đánh trở lại Hoàng Tổ vào năm 208. Hoàng Tổ bị Cam Ninh giết chết và cả vùng Giang Hạ thuộc về Đông Ngô.

Cùng năm đó, Tào Tháo đem 83 vạn quân tiến đánh Đông Ngô nhưng thất bại ở trận Xích Bích. Cam Ninh cũng tham gia trận Xích Bích và lập được nhiều công trạng. Sau đó, ông theo Chu Du tấn công Nam Quận với ý đồ đoạt Kinh Châu của Tào Tháo. Chu Du sai ông tấn công thành Di Lăng nhưng sau khi chiếm thành ông bị vây hãm trong thành, may nhờ có Chu Thái và Chu Du đến cứu. Sau những trận đánh này danh tiếng của Cam Ninh vang danh khắp nơi.

Năm 215, Tôn Quyền tấn công Hợp Phì của Đại Ngụy nhưng vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của Trương Liêu, danh tướng của Tào Tháo. Tuy nhiên do quân lực chênh lệch lớn nên Trương Liêu sai người cầu viện Tào Tháo khi đó vừa chiếm được Hán Trung. Tào Tháo liền dẫn 40 vạn quân về cứu Hợp Phì. Tôn Quyền nghe tin đó bèn hỏi ai có thể ra đánh làm giảm nhuệ khí của quân Ngụy. Cam Ninh xin đi và chỉ xin mang theo 100 kị binh. Và sau đó chỉ với 100 kị binh ông đã khiến quân Ngụy hỗn loạn và trở về mà không mất 1 người nào. Tôn Quyền khen thưởng ông rất hậu và bảo Tào Tháo có Trương Liêu còn ông có Cam Ninh dư sức đối chọi lại.

Chẳng lâu sau đó, ông mất năm 218 ở tuổi 43 vì bệnh. Theo Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thì ông mất năm 222 trong trận Di Lăng bởi tướng Phiên là Sa Ma Kha.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Lã Mông


Lã Mông (LuMeng,178-219) tự Tử Minh, là vị tướng quân đội của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông trở thành người đứng đầu của quân đội Đông Ngô sau cái chết của Chu Du và Lỗ Túc và nổi tiếng qua việc chiếm Kinh Châu dẫn đến cái chết của Quan Vũ, người đứng đầu trong ngũ hổ tướng phe Thục Hán.


Cuộc đời
Lã Mông sinh năm 178 tại Nhữ Dương. Ông gia nhập Đông Ngô sau khi Tôn Quyền lên nối nghiệp Tôn Sách. Năm 208, ông tham gia trận chiến tại Hạ Khẩu chống lại Hoàng Tổ và trận Xích Bích chống lại Tào Tháo dưới quyền chỉ huy của đại đô đốc Đông Ngô là Chu Du.

Sau khi Chu Du mất quyền điều khiển quân đội thuộc về Lỗ Túc. Năm 215, Tôn Quyền tấn công Hợp Phì sai Lã Mông đi theo. Lã Mông dùng kế chiếm được Uyển Thành nhưng quân Đông Ngô sau đó vấp phải sự kháng cự của Trương Liêu nên không chiếm được Hợp Phì. Sau đó Tào Tháo đem quân từ Hán Trung trở về khiến Tôn Quyền phải rút quân.

Năm 217 Lỗ Túc mất, quyền điều khiển quân đội thuộc về Lã Mông. Lúc này Đông Ngô và Tây Thục xảy ra bất hòa về vấn đề Kinh Châu nên Tôn Quyền sai Lã Mông tìm cách chiếm Kinh Châu. Nhân lúc Quan Vũ đi đánh Phàn Thành ở Tương Dương, Lã Mông dùng kế đánh úp Kinh Châu rồi phục binh bắt được Quan Vũ khi ông trên đường chạy trốn về Thành Đô. Quan Vũ bị Tôn Quyền sai đem chém. Chẳng lâu sau đó Lã Mông cũng bệnh mất ở tuổi 41. Do Lã Mông mất cùng năm với Quan Vũ nên tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung hư cấu chuyện Quan Vũ hiện hồn về vật chết Lã Mông.

Đây là vị tướng mình thích nhất ở Đông Ngô.Người đầu tiên và cũng là người cuối cùng đánh bại được Quan Vân Trường một tướng có tài nhưng lại kiêu căng ngạo mạn của Tây Thục

McCartney

McCartney
 Double Stars

Thái Sử Từ


Thái Sử Từ (166-206) là người ở Hoàng Huyện, đất Ðông Lai, họ là Thái Sử tên là Từ, tự là Tử Nghĩa. Mẹ của Thái Sử Từ vì ân nghĩa với Khổng Dung (cháu mấy đời của Khổng Tử) nên sai Từ đi đánh Quản Hợi.

Năm cuối đời Đông Hán, Thái thú Bắc Hải Khổng Dung bị địch vây khốn trong thành, tiểu tướng Thái Sử Từ chuẩn bị đột phá vòng vây đi mời cứu viện. Thái Sử Từ không hung hăng chém giết vượt trùng vây, mà dắt hai tên kỵ binh đeo cung tên và bia mở cổng thành ra ngoài. Binh sĩ trong thành và kẻ địch ngoài thành thấy thế thì đều lấy làm lạ. Song Thái Sử Từ lại dắt ngựa tiến vào chiến hào, cắm bia xong rồi luyện bắn cung. Bắn hết tên thì trở vào thành. Ngày thứ hai lại đi luyện bắn cung như vậy, quân địch vây thành người thì đứng dậy xem, người thì nằm bất động. Ngày thứ ba, thứ tư ông vẫn làm như thế, quân địch vây thành chẳng còn để ý đến nữa. Ngày thứ năm, Thái Sử Từ ăn no bụng, thu xếp hành trang, đi ra cổng thành như mấy hôm trước. Nhân khi địch không đề phòng, ông đột nhiên nhảy lên lựng ngựa, phóng ra khỏi vòng vây quân địch nhanh như một mũi tên, đến khi quân địch phát hiện ra thì ông đã chạy xa rồi. Sau trận đánh này, ông đã được Khổng Dung đem vàng lụa tạ ơn nhưng ông không nhận.

Ông trở về hướng nam để giúp thứ sử Dương Châu là Lưu Do, người cùng quận với Từ. Suốt thời gian đó, Lưu Do đang chống lại Tôn Sách. Tôn Sách có trong tay Ngọc Tỷ (Ấn Vua), nhưng lại không có binh quyền thì cái quyền lực ảo đó không nghĩa lý gì, chi bằng cầm nó cho Viên Thiệu mượn ba ngàn quân thực về Giang Đông dựng nghiệp. Khi về đến Giang Đông đánh trận đầu với Thái Sử Từ cả ngày, lúc đầu còn dùng kích, giáo về sau quăng cả vũ khí đánh nhau bằng tay đến rách cả áo giáp vẫn không phân được thắng bại. Hôm sau Tôn Sách dùng mưu bắt sống được Thái Sử Từ. Thấy Thái Sử Từ là một tướng văn võ song toàn nên Tôn Sách đã phân giải mọi điều để chiêu dụ Thái sử Từ về dưới trướng mình.

Thái Sử Từ trở bệnh rồi mất trước trận đánh ở Hợp Phì. Ông được mai táng ở núi Cốc Sơn. Tôn Quyền đem con Thái Sử Từ là Thái Tử Hoàng làm con nuôi. Có người nói ông bị Trương Liêu giết trong trận đó

McCartney

McCartney
 Double Stars

Trương Chiêu


Trương Chiêu (156-236), tự Tử Bố, là một mưu sĩ của Đông Ngô trong thời Tam Quốc. Ông được sinh ra ở Bình Thành (thuộc vùng Giang Tô ngày nay). Là một học giả tài ba, ông dành phần lớn thời gian của mình học tập những bộ sách cổ của Trung Quốc. Với tàinăng xuất chúng, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được đích thân Tôn Sách mời làm mưu sĩ.

Tài chính trị của ông ấn tượng đến nỗi, trước khi chết, Tôn Sách đã nói với em mình là Tôn Quyền rằng: "Việc trong không quyết thì hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết thì hỏi Chu Du". Khi Tào Tháo dẫn đại quân đến xâm chiếm Đông Ngô, vì lo lắng cho vận mệnh của đất nước và người dân nên ông đã khuyên Tôn Quyền hàng. Nhưng Tôn Quyền không đồng ý, và sau nay đánh thắng Tào Tháo trong trận Xích Bích.

Trương Chiêu không chỉ nổi tiếng vì tài năng mà còn vì sự dũng cảm, luôn quan tâm đến đất nước. Vì vậy, mỗi khi Tôn Quyền đưa ra quyết định có tính chất tiêu cực đối với nước Ngô, Trương Chiêu đều phản đối.

Trương Chiêu cùng với Trương Hoành, một mưu sĩ tài ba khác, được gọi là "hai họ Trương".

McCartney

McCartney
 Double Stars

Lăng Thống


Lăng Thống (189 - 237) tên chữ Lăng Công Tục ,là một tướng của Đông Ngô. Ông cùng với cha là Lăng Tháo theo Tôn Sách khi Sách đi đánh Nghiêm Bạch Hổ và Vương Lãng. Ông đã phục vụ cho Đông Ngô trong thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Lăng Thống sinh ở Dư Hàng, Chiết Giang.

Khi Tôn Quyền đi đánh Hoàng Tổ, cha ông bơi thuyền bị Cam Ninh bắn chết. Lúc này ông mới có 15 tuổi mà đã ra sức cướp được xác cha về. Sau đó, Cam Ninh hàng Tôn Quyền. Mang thù hằn trong lòng, ông luôn tìm cách giết Cam Ninh

Về sau, đánh nhau với Nhạc Tiến ở Hợp Phì, ông bị Tào Hưu lén bắn tên trúng ngựa làm ông ngã xuống đất, Nhạc Tiến định vác giáo lại đâm thì Cam Ninh đã kịp bắn tên trúng ngay trán Nhạc Tiến để cứu ông. Từ đó ông không còn thù hằn gì với Cam Ninh nữa.

Sau khi theo quân đánh An Huy, ông được phong Đãng Khấu Trung Lang Tướng, Lĩnh Phái Tướng, cùng Lã Mông đoạt được quận Kinh Châu của Lưu Bị.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Lục Tốn


Lục Tốn ( 183-245) tự Bá Ngôn là quân sư của phe Đông Ngô sống vào cuối đời Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng qua trận Di Lăng vào năm 222 đánh bại quân Thục Hán của Lưu Bị khiến ông trở thành 1 trong những quân sư nổi tiếng nhất của đời Tam Quốc.

Cuộc đời
Lục Tốn sinh năm 183, người Ngô Quận. Ông đến Đông Ngô theo Tôn Quyền sau khi Tôn Sách mất (năm 200) khoảng vài năm. Năm 208, Lục Tốn tham gia trận Xích Bích nhưng vì ông còn quá trẻ nên không lập được công trạng gì nổi bật.

Năm 219, nhân lúc Lưu Bị và Tào Tháo đanh tranh giành Hán Trung và Quan Vũ dẫn quân đánh Tương Dương, không quan tâm đến Kinh Châu là nơi mà Đông Ngô đã dòm ngó từ lâu, Lục Tốn đã bày kế cho Lã Mông chiếm Kinh Châu, dẫn đến cái chết của Quan Vũ, nguyên nhân chủ yếu của trận Di Lăng sau này.

Năm 222, Lưu Bị dẫn 75 vạn quân đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ. Lúc này các quân sư hàng đầu của Đông Ngô như Chu Du, Lỗ Túc và Lã Mông đã qua đời nên trọng trách bảo vệ Đông Ngô được giao cho Lục Tốn. Biết Lưu Bị không có kinh nghiệm dùng binh, đóng quân ở nơi tử địa nên Lục Tốn đã dùng hỏa công tiêu diệt 70 doanh trại của Lưu Bị, đánh tan 7 vạn quân của Lưu Bị. Sau trận này 1 năm Lưu Bị bệnh chết ở thành Bạch Đế.

Sau trận Di Lăng, Đông Ngô và Thục Hán kí hòa ước nên từ năm 222 đến năm 245, Lục Tốn đã nhiều lần đánh đuổi quân Đại Ngụy, bảo vệ thành công Đông Ngô. Năm 234, ông dẫn quân đánh Hợp Phì theo sự nhờ cậy của Khổng Minh nhưng thất bại. Năm 245, ông mất ở tuổi 62.

McCartney

McCartney
 Double Stars

Tôn Thượng Hương


Tôn Thượng Hương hay Tôn phu nhân là con gái duy nhất của Tôn Kiên, từ bé đã nổi tiếng rất xinh đẹp ,thông minh và giỏi võ . Bà có 5 người anh trai trong đó anh cả là Tôn Sách và anh hai là Tôn Quyền. Bà từng được gả làm vợ Lưu Bị.


Năm 209 Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục. Vào lúc đó, bà mới hơn 20 tuổi. Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn Thượng Hương dần dần kiểm soát nhà và con (Lưu Thiện) của Lưu Bị.



2 năm sau, mối quan hệ giữa Ngô và Thục bắt đầu căng thẳng. Tôn Thượng Hương quay trở về với anh trai của mình là Tôn Quyền. Theo những gì Triệu Vân viết thì bà định mang theo con trai của Lưu Bị là Lưu Thiện với mình. Tuy nhiên đã bị Trương Phi và Triệu Vân chặn lại. Sau khi hai bên thương thuyết, Tôn Thượng Hương để lại Lưu Thiện về nước Ngô.

Kể từ đây hôn nhân giữa bà và Lưu Bị chấm dứt. Bà không bao giờ gặp lại Lưu Bị, và sử sách cũng không có nói gì đến chuyện bà tái giá.

Trong Tam quốc diễn nghĩa, bà được miêu tả là người có tính khí nóng nảy và rất cứng đầu. Tiểu thuyết nói rằng bà hay gây rắc rối và thường các tướng sĩ của Lưu Bị phải để mắt đến Tôn phu nhân.

Tôn Thượng Hương với tư cách là vợ Lưu Bị cũng hai lần bị sử dụng trong các mưu kế của Chu Du và Tôn Quyền nhằm mục đích chống phá nhà Thục.

Đối với nhà Ngô Tôn Thượng Hương có thể coi là công thần nhưng đối nhà Thục cô bị coi là tội nhân , vậy cô là tội nhân hay công thần ?

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 2 trang]

Chuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết