Bằng chứng thứ 1: Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử
Từ những tấm bản đồ cổ đại …
Bản đồ Piri Re’is
Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy một bản đồ kì lạ được
vẽ trên da linh dương gazel. Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật
được vẽ vào năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vào
thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ thuật vẽ bản đồ. Địa vị
cao trong hàng ngũ hải quân Thổ khiến ông được phép tiếp cận với Thư
viện Hoàng gia Côngstantinốp. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên
soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau, một vài trong số
đó có giám định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.
Bản đồ thể hiện vùng bờ biển Tây Phi, bờ biển Nam Mỹ, và bờ Bắc của Nam
Cực. Đường bờ biển Nam Cực được vẽ chi tiết đến hoàn hảo. Tuyến bờ biển
dọc Nam Mỹ và Bắc Mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam cũng đều được vẽ
một cách tỷ mỷ trong bản đồ Re’is. Ở đó không chỉ thể hiện hình dáng
của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa
đựng những điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo,
sông, suối và cao nguyên. Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở
cực Nam đến năm 1852 mới phát hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên
bản đồ Re’is. Tuy nhiên câu hỏi làm sao Piri Re’is có thể vẽ một bản đồ
chính xác đến thế của vùng Nam Cực đến 300 năm trước khi nó được khám
phá không phải là câu hỏi lớn nhất, mà việc bản đồ thể hiện đường bờ
biển Nam Cực nằm dưới lớp băng dày mới là bí ẩn khó giải thích nhất. Các
bằng chứng địa chất khẳng định rằng thời điểm mà vùng đất Queen Maud
Land của Nam Cực không có băng giá gần đây nhất là vào khoảng 4000 năm
trước công nguyên.
Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood
của trường đại học Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của
ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri Re’is. Nội dung
bức thư như sau:
6, July, 1960
Subject: Admiral Piri Reis Map
TO: Prof. Charles H. Hapgood
Keene College
Keene, New Hampshire
Dear Professor Hapgood, Your request of evaluation of certain unusual
features of the Piri Reis map of 1513 by this organization has been
reviewed. The claim that the lower part of the map portrays the Princess
Martha Coast of Queen Maud Land, Antarctic, and the Palmer Peninsular,
is reasonable. We find that this is the most logical and in all
probability the correct interpretation of the map. The geographical
detail shown in the lower part of the map agrees very remarkably with
the results of the seismic profile made across the top of the ice-cap by
the Swedish-British Antarctic Expedition of 1949. This indicates the
coastline had been mapped before it was covered by the ice-cap. The
ice-cap in this region is now about a mile thick. We have no idea how
the data on this map can be reconciled with the supposed state of
geographical knowledge in 1513.
Harold Z. Ohlmeyer Lt. Colonel, USAF Commander.
Giáo sư Hapgood thân mến, Thỉnh cầu thẩm định các đặc điểm bất thường
của bản đồ Piri Re’is được vẽ năm 1513 tới chúng tôi đã được xem xét.
Lời khẳng định rằng phần dưới của bản đồ biểu thị bờ biển Princess
Martha của Queen Maud Land Nam Cực và Bán đảo Palmer là hợp lý. Chúng
tôi thấy rằng đây là một kết luận hợp lôgic nhất và có khả năng đúng
nhất. Các chi tiết địa lý thể hiện trong phần dưới của bản đồ cực kỳ
giống với các kết quả của phương pháp đo đạc dùng sóng địa chấn xuyên
qua đỉnh của chỏm băng bởi các nhà thám hiểm Thụy Điển – Anh vào năm
1949. Điều này cho thấy đường bờ biển đã được vẽ trước khi nó bị băng
bao phủ. Chỏm băng trong khu vực hiện nay dày khoảng 1 dặm. Chúng tôi
không thể hiểu nổi làm thế nào dữ liệu trên tấm bản đồ này có thể được
biết đến với tình trạng kiến thức địa chất vào năm 1513.
Khoa học chính thống khẳng định rằng chỏm băng bao phủ Nam Cực là hàng
triệu tuổi. Bản đồ Piri Re’is cho thấy vùng phía Bắc của lục địa Nam Cực
đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Điều này không khỏi khiến ta
nghĩ rằng nó đã được vẽ ra hàng triệu năm trước, nhưng điều đó là không
thể bởi con người theo thuyết tiến hóa* chưa tồn tại vào thời điểm đó.
Và các nghiên cứu xa hơn và chính xác hơn đã chứng minh thời kỳ Không
Băng gần đây nhất kết thúc vào khoảng 6000 năm trước đây. Vẫn có những
nghi ngờ về thời điểm bắt đầu của thời kỳ Không Băng này, được đưa ra
bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau dao động vào khoảng từ 13 đến 9 ngàn
năm trước công nguyên. Câu hỏi đặt ra là: Ai đã vẽ Queen Maud Land của
6000 trước. Nền văn minh chưa được biết đến nào có công nghệ cần thiết
để làm được điều này?
Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo
lịch sử truyền thống được dạy trong trường, đã phát triển tại Trung Đông
vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền văn minh
thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà
TQ. Vì thế, không có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này.
Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những việc mà chúng ta đến tận
bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?
Vào thời Trung Cổ đã tồn tại một số bản đồ hàng hải được gọi là
"portolani", là thứ bản đồ chính xác của các con đường biển, các đường
bờ biển đã biết, các bến cảng, các eo biển, các vịnh … thông thường
nhất. Phần lớn những bản đồ này tập trung tại vùng Địa Trung Hải và các
biển Aegean, và những con đường được biết khác, như là quyển sách hàng
hải mà chính Piri Re’is đã viết. Nhưng một vài báo cáo của những vùng
đất vẫn chưa được biết đến, và lưu thông trong một số rất ít thủy thủ có
vẻ đã cố gắng giữ kín những kiến thức của họ về những tấm bản đồ đặc
biệt đó càng bí mật càng tốt.
Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư
viện của Alexandria, thư viện quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ
cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của những tài
liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung
tâm nghiên cứu khác, và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm
1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những người Venetian xâm
nhập Côngstantinốp, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy
thủ Châu Âu.
Để vẽ tấm bản đồ của mình, Piri Re’is đã dùng nhiều nguồn khác nhau, thu
thập đây đó trong suốt những chuyến đi của mình. Chính ông đã ghi chú
lại nhiều trên tấm bản đồ này nhờ đó chúng ta có thể hình dung được công
việc ông đã làm với tấm bản đồ này. Ông bảo ông không chịu trách nhiệm
về các nguồn dùng để vẽ nên bản đồ này. Vai trò của ông đơn thuần là của
một người soạn thảo dùng một số lớn các nguồn bản đồ gốc khác nhau. Ông
cũng nói rằng một vài trong những bản đồ gốc đã được vẽ bởi một số thủy
thủ đương thời, trong khi một số khác là từ các bản đồ rất cổ, có niên
đại từ khoảng thế kỷ 4 TCN trở về trước.
Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể
nhận thấy trên tấm bản đồ của ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi
của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra trong
quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các
bản đồ gốc không cùng một tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc
quay lệch.
Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy
Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục,
đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn về các bản đồ cổ,
người đã từng làm việc với ông ta. Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery
đã khám phá ra phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức
độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ lưới ô và dịch chuyển bản
đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu
rằng cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có
thể là ở góc nhìn từ trên cao, nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy
bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ??
Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể
sửa lại những lỗi sai trong cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó
!!
Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt
khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải dùng phương pháp Lượng
giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.
Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học
phẳng, chứa các kinh và vĩ độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống;
bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được chiếu ra sử
dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái
bản đồ gốc đó biết rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu
vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!
Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ
Piri Re’is không phải là bản đồ duy nhất như thế …) đến Richard
Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết chính xác
cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan
đã trả lời năm 1965 rằng, cấp độ đó phải rất cao. Thực tế Strachan đã
nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp hình chiếu, kiến
thức cần thiết là của một cấp độ cực cao.
Xem bản đồ Piri Re’is với các kinh và vĩ độ được chiếu ra:
• Bản đồ thứ 1
• Bản đồ thứ 2
Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ
biển của nó, các con sông, dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được
xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam Cực (như đã nói
bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các
thiết bị sonar và sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv …
là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.
Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's
shifting crust: a key to some basic problems of earth science" – “Sự
dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của khoa học
về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào
lục địa Nam Cực có thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN. Bạn đọc quan
tâm đến nội dung của thuyết này có thể xem thêm tại đây.
Thuyết này có các luận điểm chính như sau:
1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào
một thời kỳ quá khứ xa xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí
hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí khoảng 2000 dặm về
phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng
Nam Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”. Đọc thêm về
thuyết Trái Đất đổi trục tại đây.
2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có
thể được tìm thấy trong một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế
này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo mảng hoặc là sự trượt
lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất
“có thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên
trong, giống như là da của một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch
chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng thời”. (Charles
Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings", Bạn có
thể vào đây để tìm thêm thông tin).
Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt
tình trả lời một cách nhanh chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như
không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi mở phóng
khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:
“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không
được phân phối đồng đều xung quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa
trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung lượng ly tâm
truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất
đối xứng được sản sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra
một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên phần bên trong của
nó”.
Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1
"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not
symmetrically distributed about the pole. The earth's rotation acts on
these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal
momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The
constantly increasing centrifugal momentum produced in this way will,
when it has reached a certain point, produce a movement of the earth's
crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to
"Earth's shifting crust" p.1)
Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.
Bản đồ Piri Re’is
là một thứ gì đó có vẻ hoang đường. Dường như không có cách nào mà một
người ở trong thời đại xa xưa có thể vẽ một tấm bản đồ chính xác như
thế; thực tế các tọa độ kinh độ là hoàn toàn chính xác. Và đó là thể
hiện của một trình độ kỹ thuật công nghệ không tin nổi: phương tiện tính
toán vĩ độ chính xác tương đối đầu tiên mới chỉ được phát minh vào năm
1761 bởi một người Anh tên là John Harrison, tức là sau Piri Re’is 248
năm. Và trước đó không có cách nào có thể tính toán vĩ kinh độ chính xác
đến mức có thể chấp nhận được: phải có những lỗi đến hàng trăm km.
Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những
vùng đất chưa được biết đến, những kiến thức không thể tin nổi, với độ
chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.
Thực tế Piri Re’is bản thân cũng khẳng định ông đã lấy những bản đồ cổ
hơn làm nguồn; và những bản đồ này đã được dùng như là nguồn gốc cho
những người đã vẽ những tấm bản đồ khác nhau mà cho đến lúc đó vẫn ở độ
chính xác tuyệt vời. Ấn tượng là “Dulcert's Portolano” “Bản đồ của
Dulcert” năm 1339, vĩ độ của Châu Âu và Bắc Phi là hoàn hảo, và tọa độ kinh độ của Địa Trung Hải và Biển Đen là chính xác đến từng nửa độ.
Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380.
Nó cho thấy một vùng rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ
chính xác của nó gây sửng sốt. Một bản đồ gây sửng sốt nữa được vẽ bởi
Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một
dải đất liền khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống
như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị bao phủ bởi nước vào cuối
kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên.
Oronteus Fineus là một người khác đã vẽ một tấm bản đồ chính xác khó tin
khác. Ông đã vẽ Nam Cực không có băng, vào năm 1532. Có những tấm bản
đồ thể hiện Greenland làm 2 phần tách biệt, đúng như sự khẳng định của
đội thám hiểm địa cực người Pháp đã khám phá ra có một tảng băng rất dày
nối liền 2 hòn đảo tách biệt để tạo thành Greenland.
Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta
có thể nói rằng toàn thể hành tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời
đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ thế giới cổ
đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay
cả so với ngày nay.
Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó
đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến
thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu nhỏ để
rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những
gì họ có thể tìm thấy trong các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất
cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.
Hapgood đã vạch rõ những điều kinh ngạc hơn nữa: Ông đã tìm thấy một tài
liệu bản đồ được sao chép bởi một nguồn cổ hơn được vẽ trên một cột đá,
ở TQ, vào năm 1137. Nó thể hiện cũng một trình độ kỹ thuật công nghệ
cao như thế, với cùng một phương pháp lưới ô, với cùng sự sử dụng phương
pháp lượng giác hình cầu như vậy. Nó có quá nhiều điểm chung với những
bản đồ Châu Âu khác, khiến ta phải nghĩ rằng phải có một nguồn gốc
chung: có thể nó thuộc về một nền văn minh đã diệt vong nhiều ngàn năm
trước?
Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu
từ một điểm trên cao), từ một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi
cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is hoàn toàn tương đương với một bản đồ
vệ tinh hiện đại
Bài này trích trong quyển sách : "Bằng chứng nền văn minh tồn tại trước thời nhân loại hiện nay" (http://download374.mediafire.com/wfi...an+minh+co.doc). Hope you enjoy the book. Mong các bạn có những phút giây thú vị với quyển sách nhỏ này.
BẰng chứng 2 Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước
Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám
phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một
ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu
này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình
vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy
giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì,
họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một
giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng.
Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp
đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên
internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ”
vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những
ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng
3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng
đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người
thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác
nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những
thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những
khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.
Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều
ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak.
Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra
rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy
bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một
thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến
2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.
Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực
thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó
nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại
một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư
viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều
trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May
thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô
cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể
về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.
Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?
Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng
cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để
dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.
Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền
Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ
trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa
mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế
chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về
Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết
toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại
Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày
nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được
miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ
được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó
có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.
Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ
là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách
nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm
thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh
Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay
từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây
dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây
dựng sau nó?
Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu
thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một
cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm
túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của
họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu
biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu
học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung
ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho
vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy
sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn
khách quan.
Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên
thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao –
nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm
khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một
phương tiện chiến tranh.
Bài này trích trong quyển sách : "Bằng chứng nền văn minh tồn tại trước thời nhân loại hiện nay" (http://download374.mediafire.com/wfi...an+minh+co.doc). Hope you enjoy the book. Mong các bạn có những phút giây thú vị với quyển sách nhỏ này.
Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm
tuổi ở phía Đông Ai Cập vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người
công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ. Những bình này có
chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn
vào bình bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước
công nguyên đến 226 sau công nguyên. Trong số này có một bình bằng đất
nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5 inch
chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là
một lõi thép cũng được gắn vào bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Đức Wilhelm Konig, đã kiểm tra mẫu vật
và đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên : cái bình gốm này không có gì
khác hơn chính là một pin điện thời tiền sử.
Pin điện tiền sử, được trưng bày tại Viện bảo tàng Baghdad
Pin điện tiền sử tại viện bảo tàng Bát Đa, cũng giống như những bình
pin gốm khác được đào lên, tất cả đều được định niên từ năm 240 TCN đến
năm 226 sau công nguyên trong thời chiếm đóng của đế chế Parthi. Tuy
nhiên, tiến sĩ Konig còn phát hiện được những bình đồng mạ bạc khác
trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai quật từ những vùng đất cổ của
người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có
từ 2500 năm trước công nguyên. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào,
một lớp gỉ đồng tách ra từ bề mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện
bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không nghĩ rằng
những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một
trong những nền văn minh sớm nhất được biết đến.
Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High
Volatage Laboratory tại Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý
luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được cung cấp bởi nhà
khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin
này. Dùng dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dòng điện khoảng nửa vôn.
Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht
đã làm ra một bản sao của Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép
nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử đã dùng. Bản
sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng
cho một bức tượng bằng bạc.
Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng
1800 năm trước khi viên Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro
Volta năm 1799.
Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự
có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết đến, nơi mà vài mẫu vật
với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm
khác
nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng trong một quy mô lớn.
Đèn điện thời tiền sử
Người Maya sáng tạo được một nền toán học phát triển vượt bậc, để có
thể ghi chép các sự kiện theo năm tháng nhằm quyết định thời gian gieo
trồng và thu hoạch, tính toán một cách chính xác thời tiết và những ngày
mưa nhiều nhất trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các dân tộc
thời cổ đại nguyên thủy khiến các nhà khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất
là việc họ rất thành thạo khái niệm về số "0". So với các nhà buôn Ả
Rập vượt sa mạc đưa khái niệm số "0" truyền từ Ấn Độ sang châu Âu thì
người Maya sớm hơn 1000 năm.
Người Maya tính ra mỗi tháng có 20 ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm
mỗi năm có 5 ngày kiêng kỵ không đưa vào tháng nào. Nhờ vậy số ngày thực
chất trong một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng hợp với nhận thức
quay về thời gian Trái đất tự quay và quay quanh Mặt trời hết một chu
trình. Người Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất chuẩn xác, họ còn
rất am hiểu về lịch năm của sao Kim. Một năm của sao Kim, tức là thời
gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một chu trình, người Maya tính
ra một năm sao Kim dài 584 ngày. Còn ngày nay tính ra một năm sao Kim
dài 583,92 ngày. Đó là một con số chuẩn xác đến kinh ngạc mà người Maya
đã có phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước.
Trong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần đông các dân tộc căn cứ vào
con số ngón tay để sáng tạo ra phép đếm cơ số 10. Còn người Maya lại căn
cứ vào số ngón tay và ngón chân cộng lại để sáng tạo ra phép đếm cơ số
20. Ngoài ra họ còn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 18, phép đếm này gợi ý
về cái gì? Lấy cái gì làm căn cứ? Người Maya còn là dân tộc đầu tiên
trên thế giới nắm vững khái niệm cơ số "0", nhận thức và vận dụng số "0"
trong toán học đánh dấu trình độ nhận thức của một dân tộc. Về vấn đề
này, người Maya so với người Trung Quốc và người châu Âu đã sớm hơn được
3800 năm và 1000 năm.
Nền văn minh Maya có một kiến thức không thể tin được về thiên văn.
“Bản chép tay Dresden” là một trong số vài sách chép tay còn sót lại
trước sức tàn phá của những kẻ xâm lược Tây Ban Nha. Những bản chép tay
này mô tả chính xác các dữ liệu quỹ đạo của tất cả các hành tinh trong
Thái Dương Hệ chúng ta trong mối quan hệ tham chiếu lẫn nhau. Điều này
chỉ được chứng minh bằng các kỹ thuật khoa học tối tân của chúng ta hiện
nay!
Một chứng minh khác về hiểu biết cổ đại về các ngôi sao của họ là tri
thức của họ về sự dịch chuyển của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ
mỗi 25920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng năm của
các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao
mọc sớm hơn 3,4 giây so với cùng thời điểm đó của năm trước. Những
truyền thuyết cổ xưa kể lại rằng những kiến thức này được trao cho họ từ
các “taskmasters" – “người giao việc” đến từ các ngôi sao khác!
Dải
Ngân Hà (mà người Maya gọi là “zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”)
được họ tôn thờ vì họ cho rằng nơi đó là quê hương các vị Thần của họ
Kim tự tháp mà người Maya căn cứ vào lịch pháp của mình để xây dựng
nên, thực chất là một đàn cúng tế thần linh kiêm đài quan trắc thiên
văn. Cửa sổ đài thiên văn Chichén Itzá của họ không phải hướng về những
vì sao sáng nhất mà họ hướng về nơi màn đêm trầm lặng bên ngoài dải Ngân
Hà. Còn lịch pháp của họ thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm sau,
nó được dùng để làm gì? Ngoài ra họ tiếp thu kiến thức từ đâu mà tính
ra được năm Mặt trời và năm sao Kim với độ chính xác chỉ sai ở những con
số sau dấu phẩy?
Rất hiển nhiên, tất cả những kiến thức đó đã vượt ra ngoài nhu cầu thực
tế của người Maya (theo như hiểu biết hạn chế của chúng ta về họ) đang
sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và khiến cho các nhà khảo cổ chưa
thể giải thích được.
Thành phố 9500 năm tuổi được tìm thấy dưới đáy biển Ấn Độ
Discovery in Bay of Cambay Will Force
Western Archaeologists to Rewrite History
Hôm nay, một nền văn minh cổ đã được tìm thấy cũng cổ xưa như những chủ nhân của các Kim tự tháp Ai Cập.
Theo các nhà khoa học hàng hải Ấn Độ, các phần còn lại của thành phố
này được khám phá ra tại độ sâu 36 m dưới mực nước biển tại vịnh Cambay ở
vùng biển phía Tây Ấn Độ. Và các giám định niên đại bằng C14 cho thấy
nó khoảng 9500 năm tuổi.
Thông tin này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của hầu hết các nhà sử
học và khảo cổ học Châu Âu vốn luôn phủ định, lờ đi, hoặc lấp liếm các
bằng chứng (do nó không phù hợp với các học thuyết của họ) của một cái
nhìn sâu hơn về sự tồn tại của con người trên hành tinh Trái Đất. Nền
văn minh con người là cổ xưa hơn nhiều so với những gì mà nhiều người
vẫn luôn suy nghĩ.
Theo BBC's Tom Housden, tường trình trên sự kiện khám phá Cambay:
Thành
phố rộng lớn – khoảng 5 dặm chiều dài và 2 dặm chiều rộng – tin rằng sẽ
đẩy lui niên đại của các tàn tích đã biết tại tiểu lục địa Ấn Độ thêm
hơn 5000 ngàn năm nữa.
Công trình đã được khám phá một cách
tình cờ bởi các nhà hải dương học từ Học viện công nghệ đại dương quốc
gia Ấn Độ, trong khi đang chỉ đạo các nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm
môi trường. Dùng máy quét sonar, họ đã xác định được các cấu trúc hình
học tại độ sâu 120 bộ. Các mảnh vụn được khám phá từ công trình – gồm
các vật liệu xây dựng, đồ gốm, các dãy tường, các đường gân nổi hình
chuỗi hạt, các trang trí điêu khắc, và xương cùng với răng người – đã
được xác định niên đại bằng phương pháp C14 và chứng tỏ chúng khoảng
9500 tuổi.
The vast city — which is five miles long and
two miles wide — is believed to predate the oldest known remains in the
subcontinent by more than 5,000 years.
The site was
discovered by chance last year by oceanographers from India's National
Institute of Ocean Technology, who were conducting a survey of
pollution. Using sidescan sonar, which sends a beam of sound waves down
to the bottom of the ocean, they identified huge geometrical structures
at a depth of 120 feet. Debris recovered from the site — including
construction material, pottery, sections of walls, beads, sculpture, and
human bones and teeth — has been carbon dated and found to be nearly
9,500 years old (BBC article).
Nhiều bản tường trình khác cũng khẳng định lại đánh giá này. Housden
cũng nói: “Toàn bộ các mô hình về nguồn gốc của nền văn minh hiện đại sẽ
phải được xây dựng lại từ đầu”.
Tác gia đồng thời là nhà làm phim Graham Hancock, tác giả của các công
trình điều tra nghiên cứu về các nền văn minh cổ xưa, đã báo cáo rằng
bằng chứng này là rất thuyết phục. Ví dụ, ông nói các nhà hải dương học
đã tìm thấy 2 tảng đá lớn lớn hơn bất kỳ thứ gì đã từng được khám phá.
“Các thành phố theo quy mô này, là không được biết đến trong các ghi
chép khảo cổ học cho đến khoảng 4500 năm trước khi các thành phố lớn đầu
tiên bắt đầu xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà”.
“Vào giữa tháng giêng năm 2002, các nhà khoa học hàng hải tại Ấn Độ đã
tuyên bố rằng họ đã có các bức ảnh sonar (phương pháp phản xạ âm học để
định vị, đo đạc các vật thể và các cấu trúc nằm sâu dưới nước) của các
vật thể hình vuông và hình chữ nhật khoảng 130 m dưới mặt nước tại vùng
bờ biển Tây Bắc Ấn Độ ở vịnh Cambay… các vật thể có các góc vuông. Bộ
trưởng bộ khoa học và kỹ thuật Ấn Độ đã ra lệnh khu vực sẽ được khoanh
vùng bảo vệ. Những gì được khám phá đã làm ngạc nhiên các nhà khảo cổ
học toàn cầu” (GrahamHancock.com/news).
Linda Moulton Howe, nhà nghiên cứu các sự kiện kiểu này trên khắp thế
giới, đã phỏng vấn Michael Cremo về khám phá mới này. Cremo là nhà
nghiên cứu và là tác giả của cuốn sách Forbidden Archaeology, đã đến
thăm Ấn Độ và dự hội thảo về công trình Cambay.
“Trong vòng vài tháng trở lại đây, các kỹ sư đã bắt đầu tiến hành nạo
vét tại đó và họ đã mang lên nhiều hóa thạch xương người, các hóa thạch
của gỗ, các dụng cụ đá, các mảnh đồ gốm, và nhiều thứ khác khẳng định
rằng đó thực sự là một khu vực định cư của con người. Họ đã có thể tiến
hành nhiều hơn các công việc sonar ở đó và đã có thể xác định được nhiều
cấu trúc. Chúng có vẻ đã nằm trên bờ một con sông chảy qua từ tiểu lục
địa Ấn Độ ra ngoài biển”.
Theo Howe:
“Ngay cả nếu chúng ta không biết kiến thức văn hóa của họ là gì, nếu đó
là một thành phố cổ 9500 năm tuổi, thì nó đã cổ xưa hơn nền văn minh
Sumeria tới vài ngàn năm. Nó cổ hơn Ai Cập, cổ hơn Trung Hoa. Vì thế nó
sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn thể của sự phát triển của các nền
văn minh thành thị trên hành tinh này.
Giờ đây, nếu các nghiên cứu mở rộng có thể xác định được văn hóa của
những người từng sống trong thành phố mà giờ đây đang nằm sâu dưới nước
này – nếu đúng họ là những người Veda, thì tôi nghĩ hoàn toàn có khả
năng xác định vị trí của nó tại vùng duyên hải Ấn Độ - Tôi nghĩ điều đó
sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn cảnh của lịch sử Ấn Độ mà đã được
viết ra bởi các nhà khảo cổ phương Tây trước đây”.
Để đọc thêm thông tin và các khám phá cổ xưa nhất trước đây, tại
Harappan, và quan hệ của nó với Truyền thuyết Veda, hãy tìm đọc bài báo
của Linda Moulton Howe tại website của cô EarthFiles.com
Tất cả những khám phá gần đây chỉ rõ rằng thực tế có nhiều nền văn minh
phát triển cao hơn những gì hiện nay chúng ta tin tưởng, ngay cả trong
thời kỳ Băng Hà. Bên cạnh đó, còn có nhiều các cấu trúc đền đài được tìm
thấy trại nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Từ Nhật Bản đến
Cuba, những khám phá gần đây chứng tỏ rằng đã từng tồn tại những nền văn
minh, những xã hội cao cấp hơn 10000 năm trước đây. Tuy nhiên, những
khám phá này cũng chứng minh rằng sự kết thúc bất ngờ của những nền văn
minh này có thể được lặp lại.
Từ những tấm bản đồ cổ đại …
Bản đồ Piri Re’is
Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy một bản đồ kì lạ được
vẽ trên da linh dương gazel. Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật
được vẽ vào năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vào
thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ thuật vẽ bản đồ. Địa vị
cao trong hàng ngũ hải quân Thổ khiến ông được phép tiếp cận với Thư
viện Hoàng gia Côngstantinốp. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên
soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau, một vài trong số
đó có giám định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.
Bản đồ thể hiện vùng bờ biển Tây Phi, bờ biển Nam Mỹ, và bờ Bắc của Nam
Cực. Đường bờ biển Nam Cực được vẽ chi tiết đến hoàn hảo. Tuyến bờ biển
dọc Nam Mỹ và Bắc Mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam cũng đều được vẽ
một cách tỷ mỷ trong bản đồ Re’is. Ở đó không chỉ thể hiện hình dáng
của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa
đựng những điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo,
sông, suối và cao nguyên. Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở
cực Nam đến năm 1852 mới phát hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên
bản đồ Re’is. Tuy nhiên câu hỏi làm sao Piri Re’is có thể vẽ một bản đồ
chính xác đến thế của vùng Nam Cực đến 300 năm trước khi nó được khám
phá không phải là câu hỏi lớn nhất, mà việc bản đồ thể hiện đường bờ
biển Nam Cực nằm dưới lớp băng dày mới là bí ẩn khó giải thích nhất. Các
bằng chứng địa chất khẳng định rằng thời điểm mà vùng đất Queen Maud
Land của Nam Cực không có băng giá gần đây nhất là vào khoảng 4000 năm
trước công nguyên.
Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood
của trường đại học Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của
ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri Re’is. Nội dung
bức thư như sau:
6, July, 1960
Subject: Admiral Piri Reis Map
TO: Prof. Charles H. Hapgood
Keene College
Keene, New Hampshire
Dear Professor Hapgood, Your request of evaluation of certain unusual
features of the Piri Reis map of 1513 by this organization has been
reviewed. The claim that the lower part of the map portrays the Princess
Martha Coast of Queen Maud Land, Antarctic, and the Palmer Peninsular,
is reasonable. We find that this is the most logical and in all
probability the correct interpretation of the map. The geographical
detail shown in the lower part of the map agrees very remarkably with
the results of the seismic profile made across the top of the ice-cap by
the Swedish-British Antarctic Expedition of 1949. This indicates the
coastline had been mapped before it was covered by the ice-cap. The
ice-cap in this region is now about a mile thick. We have no idea how
the data on this map can be reconciled with the supposed state of
geographical knowledge in 1513.
Harold Z. Ohlmeyer Lt. Colonel, USAF Commander.
Giáo sư Hapgood thân mến, Thỉnh cầu thẩm định các đặc điểm bất thường
của bản đồ Piri Re’is được vẽ năm 1513 tới chúng tôi đã được xem xét.
Lời khẳng định rằng phần dưới của bản đồ biểu thị bờ biển Princess
Martha của Queen Maud Land Nam Cực và Bán đảo Palmer là hợp lý. Chúng
tôi thấy rằng đây là một kết luận hợp lôgic nhất và có khả năng đúng
nhất. Các chi tiết địa lý thể hiện trong phần dưới của bản đồ cực kỳ
giống với các kết quả của phương pháp đo đạc dùng sóng địa chấn xuyên
qua đỉnh của chỏm băng bởi các nhà thám hiểm Thụy Điển – Anh vào năm
1949. Điều này cho thấy đường bờ biển đã được vẽ trước khi nó bị băng
bao phủ. Chỏm băng trong khu vực hiện nay dày khoảng 1 dặm. Chúng tôi
không thể hiểu nổi làm thế nào dữ liệu trên tấm bản đồ này có thể được
biết đến với tình trạng kiến thức địa chất vào năm 1513.
Khoa học chính thống khẳng định rằng chỏm băng bao phủ Nam Cực là hàng
triệu tuổi. Bản đồ Piri Re’is cho thấy vùng phía Bắc của lục địa Nam Cực
đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Điều này không khỏi khiến ta
nghĩ rằng nó đã được vẽ ra hàng triệu năm trước, nhưng điều đó là không
thể bởi con người theo thuyết tiến hóa* chưa tồn tại vào thời điểm đó.
Và các nghiên cứu xa hơn và chính xác hơn đã chứng minh thời kỳ Không
Băng gần đây nhất kết thúc vào khoảng 6000 năm trước đây. Vẫn có những
nghi ngờ về thời điểm bắt đầu của thời kỳ Không Băng này, được đưa ra
bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau dao động vào khoảng từ 13 đến 9 ngàn
năm trước công nguyên. Câu hỏi đặt ra là: Ai đã vẽ Queen Maud Land của
6000 trước. Nền văn minh chưa được biết đến nào có công nghệ cần thiết
để làm được điều này?
Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo
lịch sử truyền thống được dạy trong trường, đã phát triển tại Trung Đông
vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền văn minh
thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà
TQ. Vì thế, không có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này.
Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những việc mà chúng ta đến tận
bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?
Vào thời Trung Cổ đã tồn tại một số bản đồ hàng hải được gọi là
"portolani", là thứ bản đồ chính xác của các con đường biển, các đường
bờ biển đã biết, các bến cảng, các eo biển, các vịnh … thông thường
nhất. Phần lớn những bản đồ này tập trung tại vùng Địa Trung Hải và các
biển Aegean, và những con đường được biết khác, như là quyển sách hàng
hải mà chính Piri Re’is đã viết. Nhưng một vài báo cáo của những vùng
đất vẫn chưa được biết đến, và lưu thông trong một số rất ít thủy thủ có
vẻ đã cố gắng giữ kín những kiến thức của họ về những tấm bản đồ đặc
biệt đó càng bí mật càng tốt.
Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư
viện của Alexandria, thư viện quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ
cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của những tài
liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung
tâm nghiên cứu khác, và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm
1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những người Venetian xâm
nhập Côngstantinốp, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy
thủ Châu Âu.
Để vẽ tấm bản đồ của mình, Piri Re’is đã dùng nhiều nguồn khác nhau, thu
thập đây đó trong suốt những chuyến đi của mình. Chính ông đã ghi chú
lại nhiều trên tấm bản đồ này nhờ đó chúng ta có thể hình dung được công
việc ông đã làm với tấm bản đồ này. Ông bảo ông không chịu trách nhiệm
về các nguồn dùng để vẽ nên bản đồ này. Vai trò của ông đơn thuần là của
một người soạn thảo dùng một số lớn các nguồn bản đồ gốc khác nhau. Ông
cũng nói rằng một vài trong những bản đồ gốc đã được vẽ bởi một số thủy
thủ đương thời, trong khi một số khác là từ các bản đồ rất cổ, có niên
đại từ khoảng thế kỷ 4 TCN trở về trước.
Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể
nhận thấy trên tấm bản đồ của ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi
của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra trong
quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các
bản đồ gốc không cùng một tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc
quay lệch.
Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy
Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục,
đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn về các bản đồ cổ,
người đã từng làm việc với ông ta. Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery
đã khám phá ra phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức
độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ lưới ô và dịch chuyển bản
đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu
rằng cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có
thể là ở góc nhìn từ trên cao, nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy
bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ??
Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể
sửa lại những lỗi sai trong cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó
!!
Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt
khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải dùng phương pháp Lượng
giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.
Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học
phẳng, chứa các kinh và vĩ độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống;
bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được chiếu ra sử
dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái
bản đồ gốc đó biết rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu
vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!
Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ
Piri Re’is không phải là bản đồ duy nhất như thế …) đến Richard
Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết chính xác
cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan
đã trả lời năm 1965 rằng, cấp độ đó phải rất cao. Thực tế Strachan đã
nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp hình chiếu, kiến
thức cần thiết là của một cấp độ cực cao.
Xem bản đồ Piri Re’is với các kinh và vĩ độ được chiếu ra:
• Bản đồ thứ 1
• Bản đồ thứ 2
Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ
biển của nó, các con sông, dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được
xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam Cực (như đã nói
bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các
thiết bị sonar và sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv …
là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.
Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's
shifting crust: a key to some basic problems of earth science" – “Sự
dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của khoa học
về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào
lục địa Nam Cực có thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN. Bạn đọc quan
tâm đến nội dung của thuyết này có thể xem thêm tại đây.
Thuyết này có các luận điểm chính như sau:
1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào
một thời kỳ quá khứ xa xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí
hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí khoảng 2000 dặm về
phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng
Nam Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”. Đọc thêm về
thuyết Trái Đất đổi trục tại đây.
2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có
thể được tìm thấy trong một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế
này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo mảng hoặc là sự trượt
lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất
“có thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên
trong, giống như là da của một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch
chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng thời”. (Charles
Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings", Bạn có
thể vào đây để tìm thêm thông tin).
Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt
tình trả lời một cách nhanh chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như
không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi mở phóng
khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:
“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không
được phân phối đồng đều xung quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa
trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung lượng ly tâm
truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất
đối xứng được sản sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra
một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên phần bên trong của
nó”.
Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1
"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not
symmetrically distributed about the pole. The earth's rotation acts on
these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal
momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The
constantly increasing centrifugal momentum produced in this way will,
when it has reached a certain point, produce a movement of the earth's
crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to
"Earth's shifting crust" p.1)
Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.
Bản đồ Piri Re’is
là một thứ gì đó có vẻ hoang đường. Dường như không có cách nào mà một
người ở trong thời đại xa xưa có thể vẽ một tấm bản đồ chính xác như
thế; thực tế các tọa độ kinh độ là hoàn toàn chính xác. Và đó là thể
hiện của một trình độ kỹ thuật công nghệ không tin nổi: phương tiện tính
toán vĩ độ chính xác tương đối đầu tiên mới chỉ được phát minh vào năm
1761 bởi một người Anh tên là John Harrison, tức là sau Piri Re’is 248
năm. Và trước đó không có cách nào có thể tính toán vĩ kinh độ chính xác
đến mức có thể chấp nhận được: phải có những lỗi đến hàng trăm km.
Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những
vùng đất chưa được biết đến, những kiến thức không thể tin nổi, với độ
chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.
Thực tế Piri Re’is bản thân cũng khẳng định ông đã lấy những bản đồ cổ
hơn làm nguồn; và những bản đồ này đã được dùng như là nguồn gốc cho
những người đã vẽ những tấm bản đồ khác nhau mà cho đến lúc đó vẫn ở độ
chính xác tuyệt vời. Ấn tượng là “Dulcert's Portolano” “Bản đồ của
Dulcert” năm 1339, vĩ độ của Châu Âu và Bắc Phi là hoàn hảo, và tọa độ kinh độ của Địa Trung Hải và Biển Đen là chính xác đến từng nửa độ.
Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380.
Nó cho thấy một vùng rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ
chính xác của nó gây sửng sốt. Một bản đồ gây sửng sốt nữa được vẽ bởi
Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một
dải đất liền khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống
như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị bao phủ bởi nước vào cuối
kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên.
Oronteus Fineus là một người khác đã vẽ một tấm bản đồ chính xác khó tin
khác. Ông đã vẽ Nam Cực không có băng, vào năm 1532. Có những tấm bản
đồ thể hiện Greenland làm 2 phần tách biệt, đúng như sự khẳng định của
đội thám hiểm địa cực người Pháp đã khám phá ra có một tảng băng rất dày
nối liền 2 hòn đảo tách biệt để tạo thành Greenland.
Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta
có thể nói rằng toàn thể hành tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời
đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ thế giới cổ
đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay
cả so với ngày nay.
Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó
đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến
thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu nhỏ để
rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những
gì họ có thể tìm thấy trong các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất
cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.
Hapgood đã vạch rõ những điều kinh ngạc hơn nữa: Ông đã tìm thấy một tài
liệu bản đồ được sao chép bởi một nguồn cổ hơn được vẽ trên một cột đá,
ở TQ, vào năm 1137. Nó thể hiện cũng một trình độ kỹ thuật công nghệ
cao như thế, với cùng một phương pháp lưới ô, với cùng sự sử dụng phương
pháp lượng giác hình cầu như vậy. Nó có quá nhiều điểm chung với những
bản đồ Châu Âu khác, khiến ta phải nghĩ rằng phải có một nguồn gốc
chung: có thể nó thuộc về một nền văn minh đã diệt vong nhiều ngàn năm
trước?
Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu
từ một điểm trên cao), từ một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi
cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is hoàn toàn tương đương với một bản đồ
vệ tinh hiện đại
Bài này trích trong quyển sách : "Bằng chứng nền văn minh tồn tại trước thời nhân loại hiện nay" (http://download374.mediafire.com/wfi...an+minh+co.doc). Hope you enjoy the book. Mong các bạn có những phút giây thú vị với quyển sách nhỏ này.
BẰng chứng 2 Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước
Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám
phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một
ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu
này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình
vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy
giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì,
họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một
giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng.
Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp
đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên
internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ”
vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những
ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng
3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng
đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người
thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác
nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những
thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những
khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.
Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều
ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak.
Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra
rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy
bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một
thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến
2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.
Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực
thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó
nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại
một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư
viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều
trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May
thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô
cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể
về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.
Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?
Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng
cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để
dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.
Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền
Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ
trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa
mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế
chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về
Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết
toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại
Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày
nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được
miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ
được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó
có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.
Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ
là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách
nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm
thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh
Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay
từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây
dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây
dựng sau nó?
Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu
thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một
cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm
túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của
họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu
biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu
học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung
ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho
vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy
sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn
khách quan.
Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên
thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao –
nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm
khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một
phương tiện chiến tranh.
Bài này trích trong quyển sách : "Bằng chứng nền văn minh tồn tại trước thời nhân loại hiện nay" (http://download374.mediafire.com/wfi...an+minh+co.doc). Hope you enjoy the book. Mong các bạn có những phút giây thú vị với quyển sách nhỏ này.
Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm
tuổi ở phía Đông Ai Cập vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người
công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ. Những bình này có
chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn
vào bình bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước
công nguyên đến 226 sau công nguyên. Trong số này có một bình bằng đất
nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5 inch
chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là
một lõi thép cũng được gắn vào bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Đức Wilhelm Konig, đã kiểm tra mẫu vật
và đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên : cái bình gốm này không có gì
khác hơn chính là một pin điện thời tiền sử.
Pin điện tiền sử, được trưng bày tại Viện bảo tàng Baghdad
Pin điện tiền sử tại viện bảo tàng Bát Đa, cũng giống như những bình
pin gốm khác được đào lên, tất cả đều được định niên từ năm 240 TCN đến
năm 226 sau công nguyên trong thời chiếm đóng của đế chế Parthi. Tuy
nhiên, tiến sĩ Konig còn phát hiện được những bình đồng mạ bạc khác
trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai quật từ những vùng đất cổ của
người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có
từ 2500 năm trước công nguyên. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào,
một lớp gỉ đồng tách ra từ bề mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện
bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không nghĩ rằng
những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một
trong những nền văn minh sớm nhất được biết đến.
Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High
Volatage Laboratory tại Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý
luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được cung cấp bởi nhà
khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin
này. Dùng dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dòng điện khoảng nửa vôn.
Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht
đã làm ra một bản sao của Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép
nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử đã dùng. Bản
sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng
cho một bức tượng bằng bạc.
Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng
1800 năm trước khi viên Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro
Volta năm 1799.
Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự
có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết đến, nơi mà vài mẫu vật
với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm
khác
nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng trong một quy mô lớn.
Đèn điện thời tiền sử
Một
chi tiết chủ chốt của luận đề điện tiền sử này là quả thật một số thứ
đang bị thất lạc. Đó là câu đố mà các sách khoa học thường thức phải đầu
hàng. Bồ hóng. Hầu hết trong số nhiều ngàn ngôi mộ và kim tự tháp không
có dấu vết nhỏ nào của bồ hóng trên tường, như cách giải thích của tác
giả luận đề, mặc dù rất nhiều trong các ngôi mộ cổ này khắc đầy các bức
họa tiết sinh động nhiều màu sắc. Nhưng những nguồn ánh sáng thô sơ của
người Ai Cập cổ đã biết (nến, đèn dầu, vv…) đều gây ra nhiều bồ hóng và
tiêu thụ ôxi. Như vậy, làm thế nào những người Ai Cập cổ lấy ánh sáng?
mà người Ai Cập cổ đã dùng không thể dùng cho việc này được. Một vài nhà
duy lý cho rằng họ đã dùng gương phản chiếu ánh mặt trời, nhưng chất
lượng của những cái gương đồng.Một kỹ sư điện người Na Uy đã thông cáo
rằng một mẫu vật có thể làm được chức năng này. Một đồng nghiệp người Áo
đã có thể làm ra một mẫu, và 2 tác gia nổi tiếng tại AAS, Peter Krassa
và Rainer Habeck, có thể còn xây dựng nên một thuyết thực sự dựa trên
nó. Cái mà chúng ta nhìn thấy không cần hỏi nhiều đó chính là một loại
bóng đèn, với 2 cánh tay ở một đầu to của bóng, và một loại dây cáp ở
đầu bên kia, từ đó một sợi dây tóc kéo dài chạm vào mấy cánh tay ở đầu
kia. Toàn bộ thực tế trông thấy là một bóng đèn.
Hình ảnh trụ đỡ rất giống như loại chân sứ của các thiết bị điện ngày nay
Toán học và thiên văn học trình độ cao của người Mayachi tiết chủ chốt của luận đề điện tiền sử này là quả thật một số thứ
đang bị thất lạc. Đó là câu đố mà các sách khoa học thường thức phải đầu
hàng. Bồ hóng. Hầu hết trong số nhiều ngàn ngôi mộ và kim tự tháp không
có dấu vết nhỏ nào của bồ hóng trên tường, như cách giải thích của tác
giả luận đề, mặc dù rất nhiều trong các ngôi mộ cổ này khắc đầy các bức
họa tiết sinh động nhiều màu sắc. Nhưng những nguồn ánh sáng thô sơ của
người Ai Cập cổ đã biết (nến, đèn dầu, vv…) đều gây ra nhiều bồ hóng và
tiêu thụ ôxi. Như vậy, làm thế nào những người Ai Cập cổ lấy ánh sáng?
mà người Ai Cập cổ đã dùng không thể dùng cho việc này được. Một vài nhà
duy lý cho rằng họ đã dùng gương phản chiếu ánh mặt trời, nhưng chất
lượng của những cái gương đồng.Một kỹ sư điện người Na Uy đã thông cáo
rằng một mẫu vật có thể làm được chức năng này. Một đồng nghiệp người Áo
đã có thể làm ra một mẫu, và 2 tác gia nổi tiếng tại AAS, Peter Krassa
và Rainer Habeck, có thể còn xây dựng nên một thuyết thực sự dựa trên
nó. Cái mà chúng ta nhìn thấy không cần hỏi nhiều đó chính là một loại
bóng đèn, với 2 cánh tay ở một đầu to của bóng, và một loại dây cáp ở
đầu bên kia, từ đó một sợi dây tóc kéo dài chạm vào mấy cánh tay ở đầu
kia. Toàn bộ thực tế trông thấy là một bóng đèn.
Hình ảnh trụ đỡ rất giống như loại chân sứ của các thiết bị điện ngày nay
Người Maya sáng tạo được một nền toán học phát triển vượt bậc, để có
thể ghi chép các sự kiện theo năm tháng nhằm quyết định thời gian gieo
trồng và thu hoạch, tính toán một cách chính xác thời tiết và những ngày
mưa nhiều nhất trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các dân tộc
thời cổ đại nguyên thủy khiến các nhà khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất
là việc họ rất thành thạo khái niệm về số "0". So với các nhà buôn Ả
Rập vượt sa mạc đưa khái niệm số "0" truyền từ Ấn Độ sang châu Âu thì
người Maya sớm hơn 1000 năm.
Người Maya tính ra mỗi tháng có 20 ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm
mỗi năm có 5 ngày kiêng kỵ không đưa vào tháng nào. Nhờ vậy số ngày thực
chất trong một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng hợp với nhận thức
quay về thời gian Trái đất tự quay và quay quanh Mặt trời hết một chu
trình. Người Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất chuẩn xác, họ còn
rất am hiểu về lịch năm của sao Kim. Một năm của sao Kim, tức là thời
gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một chu trình, người Maya tính
ra một năm sao Kim dài 584 ngày. Còn ngày nay tính ra một năm sao Kim
dài 583,92 ngày. Đó là một con số chuẩn xác đến kinh ngạc mà người Maya
đã có phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước.
Trong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần đông các dân tộc căn cứ vào
con số ngón tay để sáng tạo ra phép đếm cơ số 10. Còn người Maya lại căn
cứ vào số ngón tay và ngón chân cộng lại để sáng tạo ra phép đếm cơ số
20. Ngoài ra họ còn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 18, phép đếm này gợi ý
về cái gì? Lấy cái gì làm căn cứ? Người Maya còn là dân tộc đầu tiên
trên thế giới nắm vững khái niệm cơ số "0", nhận thức và vận dụng số "0"
trong toán học đánh dấu trình độ nhận thức của một dân tộc. Về vấn đề
này, người Maya so với người Trung Quốc và người châu Âu đã sớm hơn được
3800 năm và 1000 năm.
Nền văn minh Maya có một kiến thức không thể tin được về thiên văn.
“Bản chép tay Dresden” là một trong số vài sách chép tay còn sót lại
trước sức tàn phá của những kẻ xâm lược Tây Ban Nha. Những bản chép tay
này mô tả chính xác các dữ liệu quỹ đạo của tất cả các hành tinh trong
Thái Dương Hệ chúng ta trong mối quan hệ tham chiếu lẫn nhau. Điều này
chỉ được chứng minh bằng các kỹ thuật khoa học tối tân của chúng ta hiện
nay!
Một chứng minh khác về hiểu biết cổ đại về các ngôi sao của họ là tri
thức của họ về sự dịch chuyển của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ
mỗi 25920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng năm của
các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao
mọc sớm hơn 3,4 giây so với cùng thời điểm đó của năm trước. Những
truyền thuyết cổ xưa kể lại rằng những kiến thức này được trao cho họ từ
các “taskmasters" – “người giao việc” đến từ các ngôi sao khác!
Dải
Ngân Hà (mà người Maya gọi là “zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”)
được họ tôn thờ vì họ cho rằng nơi đó là quê hương các vị Thần của họ
Kim tự tháp mà người Maya căn cứ vào lịch pháp của mình để xây dựng
nên, thực chất là một đàn cúng tế thần linh kiêm đài quan trắc thiên
văn. Cửa sổ đài thiên văn Chichén Itzá của họ không phải hướng về những
vì sao sáng nhất mà họ hướng về nơi màn đêm trầm lặng bên ngoài dải Ngân
Hà. Còn lịch pháp của họ thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm sau,
nó được dùng để làm gì? Ngoài ra họ tiếp thu kiến thức từ đâu mà tính
ra được năm Mặt trời và năm sao Kim với độ chính xác chỉ sai ở những con
số sau dấu phẩy?
Rất hiển nhiên, tất cả những kiến thức đó đã vượt ra ngoài nhu cầu thực
tế của người Maya (theo như hiểu biết hạn chế của chúng ta về họ) đang
sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và khiến cho các nhà khảo cổ chưa
thể giải thích được.
Thành phố 9500 năm tuổi được tìm thấy dưới đáy biển Ấn Độ
Discovery in Bay of Cambay Will Force
Western Archaeologists to Rewrite History
Hôm nay, một nền văn minh cổ đã được tìm thấy cũng cổ xưa như những chủ nhân của các Kim tự tháp Ai Cập.
Theo các nhà khoa học hàng hải Ấn Độ, các phần còn lại của thành phố
này được khám phá ra tại độ sâu 36 m dưới mực nước biển tại vịnh Cambay ở
vùng biển phía Tây Ấn Độ. Và các giám định niên đại bằng C14 cho thấy
nó khoảng 9500 năm tuổi.
Thông tin này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của hầu hết các nhà sử
học và khảo cổ học Châu Âu vốn luôn phủ định, lờ đi, hoặc lấp liếm các
bằng chứng (do nó không phù hợp với các học thuyết của họ) của một cái
nhìn sâu hơn về sự tồn tại của con người trên hành tinh Trái Đất. Nền
văn minh con người là cổ xưa hơn nhiều so với những gì mà nhiều người
vẫn luôn suy nghĩ.
Theo BBC's Tom Housden, tường trình trên sự kiện khám phá Cambay:
Thành
phố rộng lớn – khoảng 5 dặm chiều dài và 2 dặm chiều rộng – tin rằng sẽ
đẩy lui niên đại của các tàn tích đã biết tại tiểu lục địa Ấn Độ thêm
hơn 5000 ngàn năm nữa.
Công trình đã được khám phá một cách
tình cờ bởi các nhà hải dương học từ Học viện công nghệ đại dương quốc
gia Ấn Độ, trong khi đang chỉ đạo các nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm
môi trường. Dùng máy quét sonar, họ đã xác định được các cấu trúc hình
học tại độ sâu 120 bộ. Các mảnh vụn được khám phá từ công trình – gồm
các vật liệu xây dựng, đồ gốm, các dãy tường, các đường gân nổi hình
chuỗi hạt, các trang trí điêu khắc, và xương cùng với răng người – đã
được xác định niên đại bằng phương pháp C14 và chứng tỏ chúng khoảng
9500 tuổi.
The vast city — which is five miles long and
two miles wide — is believed to predate the oldest known remains in the
subcontinent by more than 5,000 years.
The site was
discovered by chance last year by oceanographers from India's National
Institute of Ocean Technology, who were conducting a survey of
pollution. Using sidescan sonar, which sends a beam of sound waves down
to the bottom of the ocean, they identified huge geometrical structures
at a depth of 120 feet. Debris recovered from the site — including
construction material, pottery, sections of walls, beads, sculpture, and
human bones and teeth — has been carbon dated and found to be nearly
9,500 years old (BBC article).
Nhiều bản tường trình khác cũng khẳng định lại đánh giá này. Housden
cũng nói: “Toàn bộ các mô hình về nguồn gốc của nền văn minh hiện đại sẽ
phải được xây dựng lại từ đầu”.
Tác gia đồng thời là nhà làm phim Graham Hancock, tác giả của các công
trình điều tra nghiên cứu về các nền văn minh cổ xưa, đã báo cáo rằng
bằng chứng này là rất thuyết phục. Ví dụ, ông nói các nhà hải dương học
đã tìm thấy 2 tảng đá lớn lớn hơn bất kỳ thứ gì đã từng được khám phá.
“Các thành phố theo quy mô này, là không được biết đến trong các ghi
chép khảo cổ học cho đến khoảng 4500 năm trước khi các thành phố lớn đầu
tiên bắt đầu xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà”.
“Vào giữa tháng giêng năm 2002, các nhà khoa học hàng hải tại Ấn Độ đã
tuyên bố rằng họ đã có các bức ảnh sonar (phương pháp phản xạ âm học để
định vị, đo đạc các vật thể và các cấu trúc nằm sâu dưới nước) của các
vật thể hình vuông và hình chữ nhật khoảng 130 m dưới mặt nước tại vùng
bờ biển Tây Bắc Ấn Độ ở vịnh Cambay… các vật thể có các góc vuông. Bộ
trưởng bộ khoa học và kỹ thuật Ấn Độ đã ra lệnh khu vực sẽ được khoanh
vùng bảo vệ. Những gì được khám phá đã làm ngạc nhiên các nhà khảo cổ
học toàn cầu” (GrahamHancock.com/news).
Linda Moulton Howe, nhà nghiên cứu các sự kiện kiểu này trên khắp thế
giới, đã phỏng vấn Michael Cremo về khám phá mới này. Cremo là nhà
nghiên cứu và là tác giả của cuốn sách Forbidden Archaeology, đã đến
thăm Ấn Độ và dự hội thảo về công trình Cambay.
“Trong vòng vài tháng trở lại đây, các kỹ sư đã bắt đầu tiến hành nạo
vét tại đó và họ đã mang lên nhiều hóa thạch xương người, các hóa thạch
của gỗ, các dụng cụ đá, các mảnh đồ gốm, và nhiều thứ khác khẳng định
rằng đó thực sự là một khu vực định cư của con người. Họ đã có thể tiến
hành nhiều hơn các công việc sonar ở đó và đã có thể xác định được nhiều
cấu trúc. Chúng có vẻ đã nằm trên bờ một con sông chảy qua từ tiểu lục
địa Ấn Độ ra ngoài biển”.
Theo Howe:
“Ngay cả nếu chúng ta không biết kiến thức văn hóa của họ là gì, nếu đó
là một thành phố cổ 9500 năm tuổi, thì nó đã cổ xưa hơn nền văn minh
Sumeria tới vài ngàn năm. Nó cổ hơn Ai Cập, cổ hơn Trung Hoa. Vì thế nó
sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn thể của sự phát triển của các nền
văn minh thành thị trên hành tinh này.
Giờ đây, nếu các nghiên cứu mở rộng có thể xác định được văn hóa của
những người từng sống trong thành phố mà giờ đây đang nằm sâu dưới nước
này – nếu đúng họ là những người Veda, thì tôi nghĩ hoàn toàn có khả
năng xác định vị trí của nó tại vùng duyên hải Ấn Độ - Tôi nghĩ điều đó
sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn cảnh của lịch sử Ấn Độ mà đã được
viết ra bởi các nhà khảo cổ phương Tây trước đây”.
Để đọc thêm thông tin và các khám phá cổ xưa nhất trước đây, tại
Harappan, và quan hệ của nó với Truyền thuyết Veda, hãy tìm đọc bài báo
của Linda Moulton Howe tại website của cô EarthFiles.com
Tất cả những khám phá gần đây chỉ rõ rằng thực tế có nhiều nền văn minh
phát triển cao hơn những gì hiện nay chúng ta tin tưởng, ngay cả trong
thời kỳ Băng Hà. Bên cạnh đó, còn có nhiều các cấu trúc đền đài được tìm
thấy trại nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Từ Nhật Bản đến
Cuba, những khám phá gần đây chứng tỏ rằng đã từng tồn tại những nền văn
minh, những xã hội cao cấp hơn 10000 năm trước đây. Tuy nhiên, những
khám phá này cũng chứng minh rằng sự kết thúc bất ngờ của những nền văn
minh này có thể được lặp lại.